1. ĐA DẠNG SINH HỌC

(Tài liệu của https://snv.org/cms/sites/default/files/explore/download/prm-vn.pdf)

1.1 Đa dạng sinh học

Đa dạng sinh học là sự đa dạng của các loài sinh vật từ tất cả các nguồn, gồm các loài sống trên cạn, dưới biển, các hệ sinh thái dưới nước khác và các tổ hợp sinh thái mà các sinh vật là một phần trong đó; bao gồm sự đa dạng trong các loài, giữa các loài và các hệ sinh thái. (CBD, 1992).

Khi nghiên cứu về đa dạng sinh học, các nhà khoa học quan tâm tới các chỉ số sau

- Số lượng các loài khác nhau được tìm thấy (Thành phần loài – Species composition)

- Số lượng cá thể của mỗi loài (Độ phong phú của loài – Species abundance)

- Sự phân bố cá thể (Species Distribution)

- Số lượng các loài bị đe dọa hoặc nguy cấp

Rừng là nơi cư trú của 80% đa dạng sinh học trên thế giới trên đất liền. Một km vuông rừng có thể là nhà của hơn 1.000 loài. Những khu rừng phức tạp và đa dạng về mặt sinh học nhất trên Trái đất là rừng mưa nhiệt đới, chẳng hạn như Amazon.

• Đại dương bao phủ hơn hai phần ba bề mặt hành tinh chúng ta đang sống của chúng ta và là nơi sinh sống của một loạt các hệ sinh thái và động vật hoang dã ngoạn mục. Khoảng 90% sự sống trong đại dương được tìm thấy ở các vùng biển nông gần bờ biển.

• Ít hơn 1% lượng nước trên thế giới là nước ngọt và dễ tiếp cận, tuy nhiên các môi trường sống nước ngọt như hồ, sông và đất ngập nước là nơi sinh sống của hơn 10% các loài động vật đã biết và gần 50% tất cả các loài cá đã biết.

· Một phần tư của tất cả sự sống trên Trái đất có thể được tìm thấy dưới chân chúng ta. Đa dạng sinh học đất bao gồm một cộng đồng khổng lồ các dạng sống dưới lòng đất như nấm, vi khuẩn, giun tròn, bọ rùa, kiến, mối, giun đất, chuột chũi, và nhiều loài khác. Những loài này đóng một vai trò to lớn trong việc giúp giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu bằng cách điều hòa khí nhà kính, cũng như luân chuyển các chất dinh dưỡng trong lòng đất để chúng có thể được sử dụng bởi thực vật. Nếu không có những công nhân dưới lòng đất này, toàn bộ hệ sinh thái sẽ sụp đổ. Đa dạng sinh học đất hiện đang phải đối mặt với nhiều mối đe dọa, bao gồm ô nhiễm, cánh tác nông nghiệp và xói mòn.

· Con người mới chỉ tồn tại được 200.000 năm, một phần rất nhỏ trong 4,5 tỷ năm lịch sử của hành tinh chúng ta. Tuy nhiên, chúng ta đã có tác động đến Trái đất lớn hơn bất kỳ loài nào khác. Khi con người tiếp tục gây áp lực lên hành tinh, chúng ta đang làm đảo lộn sự cân bằng của các hệ sinh thái và làm mất đi tính đa dạng sinh học.

· Ba phần tư môi trường trên đất liền và khoảng 66% môi trường biển đã bị thay đổi đáng kể do hành động của con người. Các vùng đất ngập nước bị ảnh hưởng nhiều nhất, đã mất đi 87% độ che phủ của chúng trong thời kỳ vừa qua.

• Gần 20% diện tích rừng mưa Amazon, một trong những nơi đa dạng sinh học nhất trên thế giới, đã biến mất trong 50 năm qua.

• Các quần thể cá, chim, thú, lưỡng cư và bò sát đã giảm 60% chỉ trong hơn 40 năm do các hoạt động của con người như khai thác quá mức và săn bắt trái phép động vật, nông nghiệp và chuyển đổi đất / suy thoái môi trường sống.

• Khoảng 1 triệu loài động vật và thực vật — nhiều hơn bao giờ hết trong lịch sử loài người — hiện đang bị đe dọa tuyệt chủng. Con số này bao gồm 40% các loài lưỡng cư, 25% các loài động vật có vú, 34% các loài cây lá kim, 14% các loài chim, 31% các loài cá mập và cá đuối, 33% các rạn san hô và 27% các loài giáp xác. Tốc độ tuyệt chủng của các loài hiện nay cao gấp 100 đến 1.000 lần so với dự kiến ​​của tự nhiên.

• Đa dạng sinh học có khả năng phục hồi. Nếu con người giảm bớt áp lực mà chúng ta đang gây ra trên hành tinh và quản lý tài nguyên tốt hơn, theo thời gian, các hệ sinh thái sẽ thích nghi. Thiên nhiên và đa dạng sinh học sẽ phục hồi.

• Trong tự nhiên, mọi thứ đều được kết nối với nhau. Hiệu ứng lan truyền của bất kỳ thay đổi nào đều ảnh hưởng đến mọi nơi trên hành tinh của chúng ta. Để cả con người và động vật hoang dã cùng phát triển, hiện tại và trong tương lai, chúng ta cần một hành tinh khỏe mạnh với nhiều loại động thực vật phong phú và hệ sinh thái sống động.

1.2 Tại sao cần tìm hiểu về Đa dạng sinh học và các vấn đề tự nhiên?

Thiên nhiên cung cấp cho chúng ta mọi thứ chúng ta cần để tồn tại

Đa dạng sinh học hỗ trợ mọi thứ trong tự nhiên mà chúng ta cần để tồn tại. Thực phẩm, nguyên liệu, nước ngọt và thuốc men đều có nguồn gốc từ thiên nhiên. Thiên nhiên bổ sung nguồn nước ngọt làm nền tảng cho mọi hoạt động nông nghiệp và kinh tế. Nhóm chuyên gia về cây thuốc của Liên minh Quốc tế Bảo tồn Thiên nhiên và Tài nguyên Thiên nhiên, (IUCN) ước tính rằng có khoảng 50.000 đến 70.000 cây thuốc và cây có tinh dầu đã biết được con người sử dụng làm thuốc hoặc các mục đích khác. Các kỹ sư và nhà thiết kế cũng nghiên cứu về động vật hoang dã và phát triển các cải tiến đối với công nghệ hiện tại, chẳng hạn như phương tiện liên lạc và các nguồn năng lượng tái tạo, dựa trên các thực hành được quan sát trong tự nhiên (phương pháp phỏng sinh học).

Kiểm soát các quá trình tự nhiên

Thiên nhiên, trong điều kiện bình thường, có khả năng tự “chăm sóc”.Tự nhiên chịu trách nhiệm điều chỉnh chất lượng không khí, khí hậu, nước, xói mòn, xử lý chất thải, thụ phấn và bệnh tật. Thiên nhiên cũng điều tiết các hiện tượng thời tiết khắc nghiệt như bão và bão tuyết. Rừng mưa thở ẩm vào khí quyển, hơi ẩm sau đó được chuyển thành mưa và trở thành nước tới cho cây trồng cách xa hàng ngàn dặm.

Đất ngập nước có nhiệm vụ lọc nước và nạp lại các tầng chứa nước, cung cấp cho chúng ta nhiều nước sạch và lành mạnh. Các hệ thống tự nhiên lành mạnh có thể giúp giảm thiệt hại do mực nước biển dâng cao, lượng mưa cực lớn và tỷ lệ hạn hán và bão thường xuyên cao hơn – tất cả đều do biến đổi khí hậu gây ra. Tuy nhiên, khi các môi trường sống tự nhiên như rừng và đất ngập nước bị phá hủy, khí nhà kính được giải phóng, làm cho biến đổi khí hậu ngày càng khốc liệt hơn.

Nền móng của sự sống

Để cung cấp những thứ thiết yếu như thức ăn và nước uống, trước hết thiên nhiên phải hỗ trợ cơ sở cho mọi sự sống. Điều này bao gồm việc tạo điều kiện cho đất khỏe mạnh hình thành và cho phép quá trình quang hợp và phát triển của thực vật diễn ra. Đất chịu trách nhiệm cho vòng tuần hoàn của các chất dinh dưỡng qua mặt đất, mà sức khỏe của tất cả các hệ sinh thái phụ thuộc vào đó. Các loài thụ phấn như ong và bướm giúp tiếp tục quá trình cho phép cung cấp đất và thực vật cho chúng ta. Khoảng 87% của tất cả các loài thực vật có hoa được thụ phấn bởi động vật, và cây trồng được thụ phấn bởi động vật chiếm 35% sản lượng lương thực toàn cầu.

Các lợi ích về văn hóa

Thiên nhiên đã chứng minh những tác động đến sức khỏe tinh thần và thể chất của chúng ta, cung cấp dịch vụ giải trí và du lịch sinh thái, cũng như hỗ trợ niềm tin tâm linh và tôn giáo. Nghiên cứu cho thấy việc ở trong các khu vực tự nhiên giúp cải thiện sức khỏe thể chất của chúng ta và ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy việc dành thời gian trong thiên nhiên cũng có thể giúp duy trì và thúc đẩy sức khỏe tâm lý.

1.3 Đe doạ đối với đa dạng sinh học

Mối đe dọa lớn nhất đối với đa dạng sinh học là hoạt động của con người. Chúng ta đã đánh bắt quá mức các đại dương, phá rừng, làm ô nhiễm nguồn nước và gây ra khủng hoảng khí hậu. Khai thác quá mức và nông nghiệp tiếp tục có tác động mạnh mẽ nhất đến đa dạng sinh học. Trong 50 năm qua, mức tiêu thụ tài nguyên thiên nhiên của chúng ta đã tăng khoảng 190%.

Nông nghiệp

Thay đổi môi trường nơi một loài sinh sống là một mối đe dọa rất lớn đối với đa dạng sinh học. Điều này có thể xảy ra theo một số cách khác nhau: loại bỏ hoàn toàn môi trường sống (chẳng hạn như phá rừng), chia cắt môi trường sống (chẳng hạn như xây đập qua sông) hoặc làm suy giảm môi trường sống (chẳng hạn như phá hoại chất lượng đất). Nông nghiệp vẫn là nguyên nhân số một làm mất môi trường sống trong rừng và đồng cỏ. Dân số ngày càng tăng và nhu cầu lương thực ngày càng tăng làm tăng áp lực chuyển đổi rừng và đồng cỏ sang trang trại và đồng cỏ. Hơn một phần ba diện tích đất trên thế giới hiện được dành cho nông nghiệp.

Khi môi trường sống biến mất và sức khỏe của môi trường sống còn lại suy giảm, thực vật và động vật sống trong đó bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Ngay cả khi mất một lượng nhỏ môi trường sống cũng có thể gây ra những tác động tàn phá đối với đa dạng sinh học, đặc biệt là trong các khu rừng mưa nhiệt đới. Rừng mưa là nơi cư trú của nhiều loài — nhiều loài trong số đó quý hiếm và có nguy cơ tuyệt chủng — hơn bất kỳ môi trường sống trên đất nào khác. Những khu rừng rộng lớn này đã bị chặt phá để trồng dầu cọ, một thành phần được sử dụng trong các sản phẩm đóng gói trên khắp thế giới. Việc chuyển đổi rừng mưa này đã chia cắt môi trường sống và đe dọa sự tồn tại của nhiều quần thể động thực vật.

Sự chuyển dịch sang nông nghiệp này cũng đã ảnh hưởng đến chất lượng đất ở nhiều nơi trên thế giới. Một nửa lớp đất mặt trên hành tinh đã bị mất trong 150 năm qua. Điều này đã có một hiệu ứng domino đối với tất cả các loài sống dựa vào đất và những gì phát triển trong đất đó để tồn tại. Nó đã dẫn đến sự suy giảm của ong và các loài côn trùng khác giúp thụ phấn cho 75% cây lương thực mà chúng ta trồng.

Khai thác quá mức

Thu hoạch quá mức hoặc khai thác quá mức tài nguyên có nghĩa là sử dụng nguồn tài nguyên quá mức và ở mức độ gây hại. Hiện nay, con người đang thực hiện những hành vi có hại này trong các khu vực tự nhiên trên khắp thế giới, bao gồm cả đại dương và rừng. Khi khả năng đánh bắt cá của tàu cá nhanh hơn mức mà cá có thể sinh sản và gia tăng quần thể của chúng, thì đó được gọi là đánh bắt quá mức. Đánh bắt quá mức là một trong những yếu tố quan trọng nhất làm suy giảm các quần thể động vật hoang dã ở đại dương. Theo dữ liệu mới nhất hiện có, 33% trữ lượng cá biển được đánh giá đang được khai thác ở mức không bền vững và 60% đã được đánh bắt đầy đủ, có nghĩa là những quần thể này có khả năng không thể chịu được sự gia tăng đánh bắt. Điều này chỉ còn lại 7% trữ lượng cá có thể hỗ trợ lớn hơn

Gần 6 tỷ tấn cá và động vật không xương sống đã được lấy từ các đại dương trên thế giới kể từ năm 1950. Cá là một phần của nhiều lưới thức ăn biển, do đó, bằng cách làm cạn kiệt lượng cá của đại dương, chúng ta đang tác động đến tất cả các loài sống phụ thuộc vào cá để tồn tại . Đánh bắt quá mức cũng có mối liên hệ chặt chẽ với đánh bắt không mong muốn - việc vô tình bắt được sinh vật biển trong khi đánh bắt một loài khác. Sản lượng không mong muốn đã gây ra vô số cái chết ngoài ý muốn của cá, rùa biển, cá mập và cá heo, là mối đe dọa hàng đầu đối với cá voi và cá heo trên khắp thế giới, ước tính gây ra ít nhất 300.000 cái chết mỗi năm.

Rừng cũng có nguy cơ bị ảnh hưởng bởi việc khai thác gỗ bất hợp pháp và không bền vững thường là do nhu cầu toàn cầu về các sản phẩm gỗ và giấy giá rẻ. Việc khai thác gỗ bất hợp pháp này khiến sức khỏe của các khu rừng bị suy giảm do thảm thực vật bị tàn phá, các dòng sông bị ô nhiễm và sự ổn định của đất bị suy yếu.

Khí hậu thay đổi

Những thay đổi về khí hậu và các hiện tượng thời tiết khắc nghiệt đã và đang ảnh hưởng đến đa dạng sinh học trên toàn cầu. Vòng đời của một số loài nhất định (chẳng hạn như thực vật có hoa) đang bị thay đổi, tác động đến các thành viên khác của hệ sinh thái phụ thuộc vào chúng. Sự di cư và mùa sinh sản của các loài cũng dao động vì chúng thường phụ thuộc vào khí hậu. Nguồn cung cấp thực phẩm và nước uống đang bị thu hẹp lại, tạo ra nhiều cạnh tranh hơn. Khi mùa đông trở nên ấm hơn và ngắn hơn, sâu bệnh lây lan. Nhiệt độ đại dương tăng lên đã làm cho các rạn san hô trục xuất tảo mà chúng phụ thuộc vào để tồn tại, dẫn đến việc san hô chuyển sang màu trắng (tẩy trắng) và thường chết. Các rạn san hô là một trong những hệ sinh thái đa dạng sinh học nhất trên thế giới và khi chúng bị tẩy trắng, chúng không còn có thể hỗ trợ tất cả các loài dựa vào chúng để kiếm thức ăn và môi trường sống. Chỉ trong ba năm, khoảng 75% các rạn san hô nhiệt đới trên thế giới đã trải qua áp lực nhiệt đủ nghiêm trọng để gây ra hiện tượng tẩy trắng và 30% số san hô này đã chết.

Tác động của biến đổi khí hậu đang được cảm nhận ở các cực nhanh gấp đôi so với phần còn lại của hành tinh. Băng biển giúp bảo vệ hành tinh của chúng ta bằng cách phản xạ phần lớn năng lượng của mặt trời trở lại không gian, giúp điều hòa khí hậu. Với việc khí nhà kính giữ nhiệt trong bầu khí quyển của chúng ta, băng biển đang tan chảy, khiến ít năng lượng của mặt trời bị phản xạ trở lại không gian và nhiều năng lượng bị hấp thụ vào đại dương. Đại dương ấm lên này chỉ góp phần làm tan băng biển, tạo ra một chu kỳ tan chảy và ấm lên làm tăng nhanh mực nước biển. Băng biển không chỉ giúp bảo vệ chúng ta bằng cách hoạt động như một tấm chắn nắng mà còn cung cấp môi trường sống và nơi kiếm ăn cần thiết cho các loài như gấu Bắc Cực và hải mã. Băng cũng hỗ trợ sự phát triển của các loại tảo nhỏ, là cơ sở của lưới thức ăn và là nguồn thức ăn cho cá và nhuyễn thể. Khi hành tinh của chúng ta tiếp tục nóng lên, băng biển sẽ tiếp tục biến mất, các loài phụ thuộc vào nó cũng vậy.

Chất lượng nước kém và khan hiếm

Tất cả sự sống trên cạn đều cần nước ngọt. Thật không may, những áp lực từ con người như sử dụng quá mức / lạm dụng nước và ô nhiễm đang góp phần làm suy giảm chất lượng và số lượng nước ngọt mà tất cả chúng ta phụ thuộc vào. Nông nghiệp sử dụng tỷ lệ nước ngọt cao nhất (gần 70%) và là nguồn ô nhiễm hàng đầu ở nhiều quốc gia. Sử dụng thuốc trừ sâu và phân bón trong các trang trại có thể làm nhiễm độc không khí và đất, cũng như nguồn nước ngọt dẫn vào các hệ sinh thái biển, làm giảm đa dạng sinh học ở khắp mọi nơi. Ngoài ô nhiễm dòng chảy hóa học này, ô nhiễm nhựa cũng là một mối đe dọa đối với đa dạng sinh học. Nhựa đã được tìm thấy từ bờ biển và nước trên bề mặt cho đến tận những nơi sâu nhất của đại dương, bao gồm cả đáy của Rãnh Mariana. Theo các nhà khoa học, các hạt nhựa có thể được tìm thấy trong 90% loài chim biển trên thế giới.

Môi trường sống của nước ngọt cũng đang bị ảnh hưởng bởi các con đập ngăn dòng sông, tạo ra sự tích tụ trầm tích gây tắc nghẽn đường nước và ngăn cản cá và các loài thủy sinh khác di cư và sinh sản. Các hệ sinh thái nước ngọt như sông, hồ và đất ngập nước cung cấp môi trường sống cho hơn 125.000 loài. Các hệ sinh thái này cũng cung cấp cho chúng ta nước để uống và để trồng thực phẩm, vì vậy điều cần thiết là chúng phải luôn chảy tự do và khỏe mạnh. Dân số ngày càng tăng dẫn đến nhu cầu ngày càng tăng và áp lực đối với nước ngọt của chúng ta. Với việc ngày càng có nhiều người tác động đến những nguồn nước ngọt, các loài nước ngọt đang suy giảm ở mức báo động.

Buôn bán động vật hoang dã

Săn trộm động vật hoang dã để buôn bán bất hợp pháp là một mối đe dọa cấp bách mà hàng trăm loài được yêu thích nhất trên thế giới phải đối mặt, chẳng hạn như voi, tê giác và hổ. Những động vật này bị săn bắt trái phép để lấy lông, ngà, sừng, xương và các bộ phận khác của chúng. Các bộ phận và sản phẩm động vật thu được bất hợp pháp được buôn bán bởi các mạng lưới tội phạm quốc tế, giống như ma túy và vũ khí bất hợp pháp. Hoạt động kinh doanh này tiếp tục tăng vọt do nhu cầu ngày càng tăng, đặc biệt là ở châu Á, nơi những bộ phận động vật này thường được coi là biểu tượng địa vị và được sử dụng trong y học hoặc chạm khắc thành đồ trang sức. Ngoài voi, tê giác và hổ, vô số loài khác như rùa biển, tê tê, chim, bò sát, linh trưởng và cây gỗ cũng bị khai thác trái phép tương tự.

1.4 WWF (và Thế giới) đang làm gì

WWF là một phần của nỗ lực toàn cầu giúp xác định các mối đe dọa đối với các khu vực bị áp lực nhất trên thế giới và nỗ lực giải quyết chúng bằng cách tìm ra các giải pháp sáng tạo.

Các mục tiêu Aichi của Công ước về Đa dạng Sinh học

Công ước về Đa dạng sinh học (CBD) được thành lập vào năm 1992 bởi 150 nhà lãnh đạo chính phủ nhằm thúc đẩy khái niệm rằng đa dạng sinh học không chỉ là về thực vật và động vật — đó là về con người và nhu cầu của chúng ta đối với thực phẩm, thuốc, không khí trong lành và nước, nơi ở, và một môi trường sạch sẽ và lành mạnh để sinh sống. Tầm nhìn của CBD là đến năm 2050, đa dạng sinh học sẽ được coi trọng, bảo tồn, phục hồi và sử dụng một cách khôn ngoan, đồng thời các hệ sinh thái sẽ được duy trì để hỗ trợ một hành tinh khỏe mạnh và mang lại những lợi ích thiết yếu cho tất cả mọi người. Để tái tập trung tầm nhìn này, công ước đã sửa đổi và cập nhật Kế hoạch Chiến lược về Đa dạng Sinh học vào năm 2010 để bao gồm 20 “Mục tiêu Đa dạng Sinh học Aichi” sẽ đạt được vào năm 2020. Các mục tiêu này bao gồm cắt giảm một nửa tỷ lệ mất môi trường sống tự nhiên và ngăn chặn sự tuyệt chủng của / cải thiện tình trạng của các loài bị đe dọa.

Các Mục tiêu Phát triển Bền vững của Liên hợp quốc

Năm 2015, các quốc gia thành viên của Liên hợp quốc đã thiết lập Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững. Chương trình nghị sự này là một tập hợp các kế hoạch được thiết kế để cải thiện đáng kể mức độ hòa bình và thịnh vượng cho con người và hành tinh, hiện tại và trong tương lai. Chương trình nghị sự bao gồm 17 mục tiêu phát triển bền vững kêu gọi tất cả các quốc gia hành động để cải thiện các hoạt động như cách chúng ta sử dụng tài nguyên rừng và đại dương cũng như cách chúng ta giải quyết tình trạng khan hiếm thực phẩm và nước.

Với thời hạn mà các sáng kiến ​​toàn cầu này đang đến gần, các nhà lãnh đạo thế giới đang đưa ra các quyết định quan trọng về môi trường, khí hậu và phát triển bền vững của chúng ta. WWF đang nỗ lực để tác động đến những quyết định này và gửi đi một thông điệp rằng chúng ta không còn khả năng tàn phá thiên nhiên nữa. Để bảo vệ động vật hoang dã và những nơi hoang dã mà chúng ta yêu thích, chúng ta phải xây dựng lại mạng lưới đa dạng sinh học hỗ trợ chúng. WWF đang hợp tác với các trường đại học, các tổ chức bảo tồn và chính phủ để giúp đạt được những mục tiêu đầy tham vọng này bằng cách:

• Thu hút các cá nhân và cộng đồng hiểu những gì có nguy cơ và thực hiện phần việc của họ bằng cách suy nghĩ lại cách họ sử dụng tài nguyên thiên nhiên và đưa ra các lựa chọn có ý thức hơn.

• Thúc đẩy các chính phủ dành các vùng đất được bảo vệ và chấm dứt việc sử dụng bất hợp pháp các nguồn tài nguyên từ rừng và đại dương.

• Làm việc với các công ty để đảm bảo các sản phẩm chúng ta sử dụng hàng ngày được sản xuất một cách có trách nhiệm.

• Dẫn đầu các nỗ lực toàn cầu nhằm chấm dứt tội phạm động vật hoang dã và buôn bán trái phép động vật hoang dã.

Số lượng và chất lượng của Đa dạng sinh học rất quan trọng đối với chất lượng sống của con người và sự phát triển bền vững. Sự đa dạng về gien, loài và hệ sinh thái, sự dồi dào của các loài riêng biệt và sự mở rộng của hệ sinh thái như rừng nhiệt đới giúp củng cố các dịch vụ hệ sinh thái mà thiên nhiên ban tặng cho xã hội loài người (TEEB, 2010). Trên phạm vi toàn cầu, Đa dạng sinh học đang dần mất đi với tốc độ nhanh chóng (MA, 2005). Theo báo cáo WWF (2014), số lượng các loài vật có xương sống chỉ còn một nửa trong vòng 40 năm trở lại đây, điều đó có nghĩa là các một lượng ngày càng lớn các loài đang có nguy cơ bị tuyệt chủng. Vì số lượng các loài riêng biệt ngày càng bị cô lập do mất và suy thoái nơi cư trú và hệ sinh thái bởi các hoạt động của con người gây ra (như biến rừng nhiệt đới thành đất nông nghiệp), sự đa dạng về gien trong chính các loài cũng bị mất đi.

1.5 Những gì trẻ em có thể làm

Để ngăn chặn sự suy giảm của các hệ thống tự nhiên hỗ trợ chúng ta và tất cả các loài khác trên hành tinh, chúng ta cần sự thay đổi thực sự trên toàn thế giới. Điều này có nghĩa là mọi người ở mọi thời đại đều phải hành động!

Nói ra! Nói chuyện với bạn bè, gia đình và giáo viên của bạn về tầm quan trọng của việc bảo vệ thiên nhiên. Thu hút sự chú ý của họ đến đa dạng sinh học và chia sẻ những gì bạn đã học được về lý do tại sao đa dạng sinh học lại quan trọng như vậy.

Bắt đầu một phong trào trong trường học hoặc cộng đồng của bạn để giúp đỡ hành tinh bằng cách trồng cây hoặc tiết kiệm năng lượng.

Tiết kiệm năng lượng. Tắt đèn và các thiết bị không cần thiết. Đạp xe hoặc đi bộ khi bạn có thể, thay vì sử dụng ô tô. Nói chuyện với gia đình và trường học của bạn về việc chuyển sang sử dụng năng lượng tái tạo và các thiết bị tiết kiệm năng lượng.

Nghĩ về thức ăn bạn ăn. Cách chúng ta phát triển và sản xuất thực phẩm có tác động lớn đến hành tinh. Giảm lượng thức ăn và nước uống mà bạn lãng phí. Ngoài ra, hãy nhớ ăn một chế độ ăn uống cân bằng và tuân theo các hướng dẫn dinh dưỡng được khuyến nghị.

Mua sắm thông minh. Khi mua các sản phẩm từ gỗ hoặc giấy, hãy tìm biểu tượng cho biết sản phẩm được Hội đồng Quản lý Rừng (FSC) chứng nhận là được sản xuất bền vững từ các khu rừng được quản lý có trách nhiệm. Khi mua hải sản, hãy tìm nhãn tương tự từ Cố vấn Quản lý Hàng hải (MSC) để đảm bảo rằng chúng được đánh bắt bền vững và được sản xuất có trách nhiệm. Thực hiện nghiên cứu của bạn về các sản phẩm có chứa dầu cọ và kiểm tra nhãn vào lần mua hàng tiếp theo. Và hãy cảnh giác, đặc biệt là khi đi du lịch; không mua đồ lưu niệm làm từ các bộ phận của động vật.

Viết thư cho một chính trị gia hoặc doanh nghiệp địa phương và nói với họ về một vấn đề môi trường mà bạn đang quan tâm. Và đừng ngại đặt câu hỏi!

Trồng các loại cây thu hút ong, bướm và các loài thụ phấn khác. Bạn cũng có thể tạo môi trường sống cho động vật hoang dã ở sân sau, chẳng hạn như các khúc gỗ thối cho bọ hoặc sạn bọ.

Sử dụng ít đồ nhựa hơn — đặc biệt là những đồ dùng một lần như ống hút — và nhớ tái sử dụng và tái chế bất cứ khi nào có thể.

Mua những thứ dùng được lâu và có thể sửa chữa hoặc tái chế. Những thứ như xe đạp và quần áo có thể được phục hồi hoặc sửa chữa.

Hãy tận hưởng và khám phá những điều kỳ thú của thiên nhiên xung quanh bạn, nhưng hãy luôn tôn trọng môi trường xung quanh và nhớ tự dọn dẹp sau đó. Hãy để lại thiên nhiên nguyên sơ như bạn đã tìm thấy nó!

1.6 Đa dạng sinh học của Việt Nam

Để hiểu về đa dạng sinh học ở Việt Nam thì trước hết cần hiểu về đa dạng hệ sinh thái (nơi trú ngụ của các loài sinh vật và có sự tương tác với môi trường). Theo các kết quả nghiên cứu, Việt Nam nằm ở vị trí chuyển giao của nhiều luồng sinh vật: phía đông mang các đặc điểm địa sinh học của dãy Hymalaya; phía nam có các kiểu hệ sinh thái tương tự với các hệ sinh thái biển đảo và đất liền của khu vực Đông Nam Á; dãy Trường Sơn là vùng chuyển tiếp giữa kiểu khí hậu nhiệt đới và cận nhiệt đới [ 1]. Bên cạnh các dãy núi, Việt Nam còn có 16 hệ thống sông chính, trong đó có hơn 10 hệ thống sông mà lưu vực có diện tích trên 10.000 km2 như hệ thống sông Hồng, sông Cửu Long, sông Đồng Nai... Bên cạnh hệ sinh thái rừng thì Việt Nam còn có nhiều kiểu hệ sinh thái khác như trảng cỏ, đất ngập nước nội địa, đồi cát, bãi bồi ven biển, cửa sông, bãi cỏ biển, rạn san hô và vùng biển sâu [2]. Song song đó còn có các hệ sinh thái nhân tạo như đập nước, đất nông nghiệp, đô thị.

Đa dạng về hệ sinh thái là cơ sở cho sự đa dạng loài động/thực vật, vi sinh vật. Việt Nam nằm trong khu vực Indo - Burma, là 1 trong 25 điểm nóng về đa dạng sinh học toàn cầu [3]. Đa dạng sinh học ở Việt Nam đứng thứ 16 trên thế giới [4]. Một thống kê chưa đầy đủ vào năm 2011 cho thấy, Việt Nam là nơi trú ngụ của 13.766 loài thực vật, 10.300 loài động vật trên cạn (312 loài thú, 840 loài chim, 167 loài ếch nhái, 317 loài bò sát, trên 7.700 loài côn trùng, và nhiều loài động vật không xương sống khác) [5]. Số loài sinh vật nước ngọt đã được biết đến là hơn 1.438 loài vi tảo, 800 loài động vật không xương sống, 1.028 loài cá nước ngọt. Số lượng loài sinh vật biển được biết là hơn 11.000 loài (6.300 loài động vật đáy, 2.500 loài cá biển, 653 loài rong biển, 657 loài động vật nổi, 537 loài thực vật nổi, 94 loài thực vật ngập mặn, 225 loài tôm biển, 14 loài cỏ biển, 15 loài rắn biển, 25 loài thú biển và 5 loài rùa biển) [5].

Các con số thống kê nêu trên chưa thực sự phản ánh đầy đủ tính đa dạng sinh học của Việt Nam, khi mà số lượng loài mới được phát hiện không ngừng tăng nhanh trong những năm gần đây. Ví dụ, hơn 18 loài côn trùng mới được công bố vào năm 2017 chỉ từ một nghiên cứu [6], 5 loài mới của một giống thực vật mới cũng đã được mô tả từ một công trình vào năm 2014 [7]. Điều đó chứng minh nguồn tài nguyên về đa dạng loài động, thực vật ở Việt Nam chưa thực sự được hiểu biết đầy đủ.

Một đặc điểm nổi bật trong nguồn tài nguyên về đa dạng sinh học ở Việt Nam là tính đặc hữu về loài, đồng thời cũng là về nguồn gen quý hiếm. Thống kê từ cơ sở dữ liệu các nhóm động, thực vật cho thấy, Việt Nam có ít nhất 467 loài động vật đặc hữu, cao hơn nhiều so với các quốc gia lân cận như Lào, Campuchia, Thái Lan (bảng 1). Bên cạnh đó, Việt Nam có đến 25 giống thực vật có mạch đặc hữu, trong khi con số này ở Lào là 3 và Campuchia là 1. Rõ ràng nguồn gen thực vật đặc hữu này là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá mà Việt Nam có được. Tính đặc hữu ở Việt Nam trong khu hệ động vật đã ngày một gia tăng khi số lượng nghiên cứu về côn trùng được mở rộng ra các nhóm đối tượng khác như Chuồn chuồn (Bộ Odonata), Bọ cánh cứng (Bộ Coleoptera), Bọ ngựa (Bộ bọ ngựa Mantodea), Bọ que (Bộ Phasmatodea). Một số phát hiện điển hình đã gia tăng tính đặc hữu về động vật ở Việt Nam như phát hiện các giống và loài côn trùng mới cho Việt Nam [6, 8-10]. Những nghiên cứu trên đã thêm khẳng định tính độc đáo về đa dạng sinh học của Việt Nam và giá trị to lớn trong sự đa dạng về nguồn gen sinh vật.

Tình trạng bảo tồn

Giá trị đa dạng sinh học cao nhưng hiện trạng tình trạng bảo tồn về đa dạng sinh học cũng là một vấn đề cấp bách của quốc gia. Có thể nói hiện trạng đa dạng sinh học ở Việt Nam chịu nhiều ảnh hưởng bởi lịch sử chiến tranh và nền văn hóa phụ thuộc vào nguồn tài nguyên thiên nhiên. Trong giai đoạn chiến tranh, ít nhất 2,2 triệu ha rừng đã bị ảnh hưởng trong giai đoạn 1943-1973 [11]. Sự suy giảm nguồn tài nguyên rừng tiếp tục diễn ra sau khi chiến tranh kết thúc do nhu cầu phát triển kinh tế [4, 11, 12]. Bên cạnh đó, sử dụng động vật hoang dã để phục vụ nhu cầu sống của cộng đồng dân cư sống dựa vào rừng đã đẩy nhiều loài động vật đứng trước nguy cơ tuyệt chủng, đơn cử như đối với các loài linh trưởng [13]. Bên cạnh đó là nhiều nguyên nhân khác như: chuyển đổi đất khi chưa có đủ luận cứ khoa học, phát triển cơ sở hạ tầng, loài ngoại lai xâm hại, khai thác quá mức nguồn tài nguyên, ô nhiễm môi trường, và áp lực từ việc tăng nhanh dân số [4, 14, 15].

Từ những hệ quả trên, nhiều loài động, thực vật ở Việt Nam đã được các chuyên gia trong và ngoài nước đánh giá. Kết quả đến năm 2007 cho thấy, có ít nhất 4 loài động vật và 1 loài thực vật đã được xem là tuyệt chủng ở Việt Nam [16] như loài Heo vòi (Tapirus indicus), Tê giác 2 sừng (Dicerorhinus sumatrensis). Gần đây nhất (2012) là sự tuyệt chủng của loài Tê giác 1 sừng (Rhinoceros sondaicus) [17]. Số lượng loài động, thực vật đã tuyệt chủng và đang đứng trước nguy cơ tuyệt chủng tại Việt Nam được đánh giá là 728 loài (trong 855 loài được đánh giá), trong đó có 420 loài thực vật [18] và 308 loài động vật [16]. Một thực tế là công tác đánh giá đã thực hiện khá lâu và hiện trạng của nhiều loài cũng đã thay đổi. Do vậy, cập nhật lại tình hình bảo tồn của các loài sinh vật ở Việt Nam là nhu cầu cấp thiết, giúp hoạch định các chiến lược ưu tiên bảo tồn về sau.

Không chỉ vậy, số lượng các loài có nguy cơ tuyệt chủng toàn cầu có phân bố ở Việt Nam hiện cũng rất nhiều. Theo dữ liệu từ Danh lục đỏ IUCN năm 2020 [19], tổng cộng có 6.640 loài sinh vật đã được đánh giá, trong đó có 1.081 loài (gồm 771 loài động vật và 310 loài thực vật) đang có nguy cơ tuyệt chủng, chiếm 16,28% tổng số loài đã được đánh giá (bảng 3). Con số này đã tăng hơn so với tỷ lệ 13% ở năm 2012 [16]. Như vậy có thể thấy rằng số lượng loài động, thực vật cần được bảo tồn ở Việt Nam là rất lớn và có thể xem đây là một thách thức không hề nhỏ đối với công tác bảo tồn đa dạng sinh học ở Việt Nam.

Bảng 3. Thống kê số lượng loài đang bị đe dọa được đánh giá theo IUCN.

Có thể nói, những vấn đề liên quan đến đa dạng sinh học ở Việt Nam ngày càng trở nên cấp bách. Tín hiệu đáng mừng là công tác bảo tồn đa dạng sinh học đã được Chính phủ nhìn nhận và hoàn thiện khung pháp lý. Đáng kể nhất là Luật Đa dạng sinh học năm 2008, Luật Lâm nghiệp năm 2018, Chiến lược quốc gia về bảo tồn đa dạng sinh học năm 2014. Nhiều kế hoạch hành động bảo tồn cho nhóm loài đang có nguy cơ tuyệt chủng cao đã được đưa ra, như kế hoạch bảo tồn rùa biển, voi, hổ, linh trưởng, thú ăn thịt nhỏ… Và nhiều văn bản pháp luật liên quan đến công tác thực thi pháp luật, bảo tồn đa dạng sinh học như Nghị định 06/2019/NĐ-CP liên quan đến động thực vật rừng ưu tiên bảo tồn, Nghị định 26/2019/NĐ-CP liên quan đến thủy sản ưu tiên bảo tồn.

Thách thức bảo tồn đa dạng sinh học

Vai trò của ngành bảo tồn đa dạng sinh học ngày một tăng lên và đã trở thành một phần mở rộng của xã hội, kinh tế, chính trị; đồng thời gắn liền với các chiến dịch nâng cao nhận thức như một phần của nền kinh tế bền vững [20]. Ở Việt Nam, bảo tồn đa dạng sinh học có thể tính từ khi Chính phủ thành lập Vườn quốc gia Cúc Phương (1962), mở đầu cho một hệ thống vườn quốc gia và các rừng đặc dụng ở Việt Nam. Sự hình thành nên hệ thống pháp luật liên quan đến đa dạng sinh học về sau khẳng định hệ thống chính trị của Việt Nam đã đưa bảo tồn đa dạng sinh học là một vấn đề quốc gia, và gắn liền nó với sự phát triển kinh tế. Tuy vậy trong bối cảnh phát triển như hiện nay, bảo tồn đa dạng sinh học ở Việt Nam đang đứng trước nhiều thách thức, đòi hỏi sự chung tay của cả xã hội.

Đầu tiên là thách thức trong việc giữ ổn định hệ sinh thái hiện có để đảm bảo điều kiện tồn tại và phát triển của các loài sinh vật. Mặc dù Việt Nam đã công bố Chiến lược quốc gia về bảo tồn đa dạng sinh học, quy hoạch hệ thống rừng đặc dụng và các khu bảo tồn biển để bảo tồn đa dạng sinh học đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 (Quyết định 45/QĐ-TTg ngày 8/1/2014). Tuy nhiên, có thể thấy diện tích bảo tồn của các khu vực được bảo vệ không thực sự đủ lớn (phần lớn có diện tích dưới 50.000 ha) để đảm bảo cho nhiều loài động vật có kích thước lớn như voi, hổ. Bên cạnh đó, sự tác động do biến đổi khí hậu cũng đe dọa đa dạng sinh học của Việt Nam. Ước tính có ít nhất 38,9% diện tích Đồng bằng sông Cửu Long và 16,8% diện tích Đồng bằng sông Hồng sẽ bị ngập nếu nước biển dâng lên 100 cm [21]. Các hệ sinh thái ven biển ở Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng [22]. Rõ ràng đây là một thách thức không hề nhỏ và cần có thêm các nghiên cứu liên quan để từ đó kịp thời đưa ra được các giải pháp thích ứng.

Thách thức tiếp theo là ổn định được môi trường trong bối cảnh phát triển kinh tế nhanh. Việt Nam được đánh giá có tốc độ phát triển kinh tế nhanh trong khu vực và trên thế giới, bình quân 6,53%/năm trong giai đoạn từ năm 2000-2017 (số liệu của Tổng cục Thống kê). Tuy vậy, cùng với sự phát triển kinh tế, tình trạng ô nhiễm ngày một gia tăng, đe dọa môi trường sống của nhiều loài động, thực vật, đặc biệt nghiêm trọng đối với các thủy vực [23]. Bên cạnh đó, tốc độ phát triển nhanh cũng kéo theo tốc độ chuyển đổi đất và mở rộng các đô thị [24], đã phần nào làm giảm diện tích các sinh cảnh tự nhiên, làm suy giảm không gian sống của các loài động, thực vật hoang dã. Thêm nữa, sự hình thành nên hệ thống cơ sở giao thông và hạ tầng phục vụ phát triển kinh tế đã làm gia tăng khả năng cách ly giữa các khu bảo tồn. Rõ ràng áp lực phát triển kinh tế và áp lực bảo tồn đa dạng sinh học, môi trường đòi hỏi các quốc gia phải thay đổi cách tiếp cận trong phát triển kinh tế, định hướng đến một nền kinh tế phát triển bền vững, và có thể thấy rằng Việt Nam cũng không thể tránh khỏi xu thế đó.

Thách thức trong nâng cao nhận thức của cộng đồng. Các chiến dịch nâng cao nhận thức là một phần quan trọng trong công tác bảo tồn đa dạng sinh học [21]. Trong những năm gần đây, công tác tăng cường nhận thức cho người dân sinh sống xung quanh các khu rừng đặc dụng (Vườn quốc gia, Khu dự trữ thiên nhiên) đã được quan tâm. Nhưng có thể thấy rằng trình độ dân trí và mức sống của người dân trong các khu vực này là một trở ngại lớn trong việc tiếp nhận kiến thức. Bên cạnh đó, nhận thức liên quan đến bảo tồn đa dạng sinh học ở Việt Nam cũng chưa được chú trọng ở khu vực đô thị, trong khi tiềm lực xã hội huy động cho công tác này tập trung chủ yếu ở đây.

Thách thức trong việc thực thi các luật liên quan về đa dạng sinh học. Một điều thuận lợi là hệ thống pháp luật của Việt Nam liên quan đến các loài quý hiếm và ưu tiên bảo tồn đã được hình thành, bao gồm cả danh sách loài và hình thức xử phạt. Tuy nhiên, hệ thống luật và chính sách này lại thiếu các hướng dẫn thực thi, còn có sự chồng chéo về trách nhiệm giữa các chính sách và luật trong khi thiếu sự giải thích chi tiết, đã dẫn đến tình trạng xung đột giữa các văn bản pháp luật, gây khó khăn trong quá trình thực thi [2]. Do đó, trong thời gian tới, các dự án hoàn thiện hệ thống cơ sở pháp luật và chính sách liên quan đến đa dạng sinh học của Việt Nam nên là một trong những ưu tiên của quốc gia [2].

Việt Nam nằm trong điểm nóng về đa dạng sinh học ở Indo-Burma, là một trong những nước có nguồn đa dạng sinh học phong phú nhất trên toàn cầu. Quỹ Quốc tế Bảo vệ Thiên nhiên (WWF) đã xác định 238 vùng sinh thái được ưu tiên trên toàn cầu trong đó có 6 vùng sinh thái ở Việt Nam (WWF 2014). Quỹ Đối tác về các Hệ Sinh thái Trọng yếu đã xác định 509 điểm nóng về đa dạng sinh học ở Indo-Burma, trong đó có 110 điểm ở Việt Nam và nước này còn có 65 Vùng sinh sống quan trọng của chim (Birdlife, 2002). Trong tổng số 754 loài bị đe dọa trên toàn cầu ở Indo-Burma, có 335 loài (44%) được xác nhận là nằm ở Việt Nam, bao gồm 106 loài không tìm thấy ở các địa điểm khác trong điểm nóng (CEPF 2011). Tổ chức Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN) xem xét 76 loài thực vật và động vật sinh sống tại Việt Nam đang bị đe dọa nghiêm trọng trên toàn cầu và 134 loài khác đang bị đe dọa trên toàn cầu (IUCN 2013).

Việt Nam thực sự có số loài đang bị đe dọa cao nhất thế giới (Pilgrim & Nguyen Duc Tu, 2007).

Sự phong phú về Đa dạng sinh học của Việt Nam đóng vai trò rất quan trọng cho sự phát triển bền vững vì cung cấp sản vật cho con người, điều tiết dịch vụ (trữ lượng các-bon và điều tiết lượng mưa, loại bỏ các chất gây ô nhiễm thông qua lọc khí và nước, bảo vệ khỏi tác động của thiên tai như sạt lở đất và bão ven biển), các dịch vụ văn hóa-xã hội, dịch vụ hỗ trợ CBD, 2010). Tuy nhiên, sự phong phú và chất lượng đa dạng sinh học của Việt lại đang bị đe dọa nghiêm trọng bởi rất nhiều yếu tố. Những nguyên nhân trực tiếp gây mất đa dạng sinh học đã được xác định, gồm phá rừng và thay đổi sử dụng đất, buôn bán động vật hoang dã, phá rừng bất hợp pháp, khai thác thiếu bền vững nguồn sinh vật và môi trường chính sách yếu kém về bảo vệ rừng và Đa dạng sinh học (de Queroz và cộng sự, 2013; World Bank, 2005; ICEM, 2003). Nguyên nhân cơ bản của tình trạng suy thoái đa dạng sinh học và suy thoái rừng nhanh chóng của một quốc gia có thể là do hệ thống quản lý môi trường không hiệu quả, trong đó động lực phát triển kinh tế quốc gia trong khuôn khổ kinh tế toàn cầu đòi hỏi khắc nghiệt về sản xuất hàng hóa với giá phải trả chính là nguồn vốn tài nguyên sẵn có (de Queroz và cộng sự, 2013).

https://vjst.vn/vn/tin-tuc/3184/da-dang-sinh-hoc-o-viet-nam--thuc-trang-va-thach-thuc-bao-ton.aspx

2. RỪNG NGẬP MẶN VIỆT NAM

(Tài liệu download từ trang http://mabvietnam.net/

2.1. Hiện trạng và xu thế biến đổi hệ sinh thái rừng ngập mặn ở Việt Nam

2.1.1. Diện tích rừng ngập mặn Việt Nam

Theo kết quả kiểm kê rừng toàn quốc công bố tháng 7/2001 do Viện Điều tra Quy hoạch Rừng tiến hành, diện tích rừng ngập mặn (RNM) Việt Nam tính đến ngày 21/12/1999 là 156.608ha. Trong đó diện tích RNM tự nhiên là 59.732ha chiếm 38,1% và diện tích RNM trồng là 96.876ha chiếm 61,95%. Trong số diện tích RNM trồng ở Việt Nam, rừng đước (Rhizophora apiculata) trồng chiếm 80.000ha (82,6%), còn lại 16.876ha là rừng trồng trang (Kandelia obovata), bần chua (Sonneratia caseolaris) và các loại cây ngập mặn trồng khác (17,4%) (Viện Điều tra Quy hoạch Rừng, 2001).

Cho đến nay, các số liệu thống kê về diện tích RNM ở Việt Nam không thống nhất.

– Kết quả thống kê diện tích rừng ngập mặn từ các tỉnh ven biển Việt Nam tập hợp lại (Sâm và cs. 2005), tính đến tháng 12/2001 thì Việt Nam có tổng diện tích RNM khoảng 155.290ha, chênh lệch 1.318ha so với số liệu kiểm kê rừng toàn quốc tháng 12/1999 (156.608ha). Trong đó diện tích RNM tự nhiên chỉ có 32.402ha chiếm 21%, diện tích RNM trồng 122.892ha chiếm 79%.

– Theo quyết định số 1116/QĐ.BNN-KL ngày 18/5/2005 của Bộ Nông nghiệp Phát triển Nông thôn về việc công bố diện tích rừng và đất chưa sử dụng toàn quốc năm 2003 là 68.276ha và 2004 là 68.035ha trong đó rừng đặc dụng là 12.761ha, rừng phòng hộ 42.221ha và rừng sản xuất 13.053ha.

2.1.2. Phân bố địa lý rừng ngập mặn ven biển

Dựa vào các yếu tố địa lý, khảo sát thực địa và một phần kết quả ảnh viễn thám, Phan Nguyên Hồng (1991) đã chia RNM Việt Nam ra làm 4 khu vực và 12 tiểu khu .

Khu vực I: Ven biển Đông Bắc, từ mũi Ngọc đến mũi Đồ Sơn

Khu vực II: Ven biển đồng bằng Bắc Bộ, từ mũi Đồ Sơn đến mũi Lạch Trường

Khu vực III: Ven biển Trung Bộ: Từ mũi Lạch Trường đến mũi Vũng Tàu

Khu vực IV: Ven biển Nam Bộ, từ mũi Vũng Tàu đến mũi Nải, Hà Tiên.

2.1.2.1. Khu vực I: Ven biển Đông Bắc

Bờ biển Đông Bắc là khu vực phức tạp nhất, thể hiện trong các đặc điểm về địa mạo, thủy văn và khí hậu; có những mặt thuận lợi cho sự phân bố của RNM, nhưng cũng có những nhân tố hạn chế sự sinh trưởng và mức độ phong phú của các loài cây, trong đó nhiệt độ có vai trò quan trọng.

Khu vực I có 1 hệ thực vật ngập mặn tương đối phong phú, gồm những loài chịu mặn cao, không có các loài ưa nước lợ điển hình, trừ các bãi lầy nằm sâu trong nội địa như Yên Lập và một phần phía nam sông Bạch Đằng, do chịu ảnh hưởng mạnh của dòng chảy.

Đáng chú ý là những loài phổ biển ở đây như đâng, vẹt dù, trang, lại rất ít gặp ở RNM Nam Bộ. Có những loài chỉ phân bố ở khu vực này như chọ, hếp Hải Nam. Ngược lại nhiều loài phát triển mạnh ở Nam Bộ về cả kích thước và phân bố lại không có mặt ở khu vực I.

Khu vực I được chia làm 3 tiểu khu:

Tiểu khu 1

Từ Móng Cái đến Cửa Ông, bờ biển dài khoảng 55 km. Tiểu khu này gồm lưu vực cửa sông KaLong, lưu vực vịnh Tiên Yên – Hà Cối và vùng ven bờ cửa sông Tiên Yên – Ba Chẽ.

Vùng cửa sông Tiên Yên – Ba Chẽ được giới hạn đường bờ từ Đầm Hà đến Cửa Ông, phía ngoài là các lạch triều sâu ngăn cách với hệ thống đảo chắn Cái Bầu, Cái Chiên tạo thành cửa sông hình phễu Tiên Yên – Ba Chẽ (Cự và cs, 1996) với nhiều hòn đảo lớn nhỏ có rừng nhiệt đới trên cạn và các viền RNM ven bờ và quanh các đảo.

Tiểu khu này có tính chất thuỷ triều khá thuần nhất nhưng lòng sông dốc nên cây ngập mặn không phân bố sâu vào nội địa; độ mặn tương đối cao (bình quân 26‰/năm) phù hợp với sinh trưởng của các loài chịu mặn cao. Mặc dù có các quần đảo che chắn ở phía ngoài giúp giảm đáng kể tác động của gió mùa và bão tạo điều kiện thuận lợi cho sự phân bố của cây ngập mặn nhưng về mùa đông, khi gió mùa đông bắc tràn xuống thì nhiệt độ không khí, nước và đất giảm xuống đột ngột do đó một số loài không thích nghi nổi, các loài khác chịu được lạnh thì bị kìm hãm về kích thước.

Ở các rừng nguyên sinh ít bị tác động của con người, cây cao nhất cũng chỉ 8 – 10 m như vẹt dù, đâng, mắm biển. Các bãi triều ở tây nam bán đảo Trà Cổ, Mũi Chùa, cửa sông Tiên Yên, cửa sông Ba Chẽ, RNM phát triển mạnh.

Nguyễn Đức Cự và cs (1996) đã tính được diện tích đất ngập nước triều có phủ thực vật ngập mặn (TVNM) ở tiểu khu gồm: 13.522 ha chia làm 3 vùng

Tiểu khu 2: Từ Cửa Ông đến Cửa Lục (dài khoảng 40km)

Mặc dầu có một hệ thống quần đảo khá dầy che chắn sóng, gió ở phía ngoài (Bái Tử Long, Hạ Long), độ mặn ít thay đổi, nhưng do nhiệt độ mùa đông thấp, lượng mưa không cao, phù sa ít, cho nên RNM dọc thành phố Hạ Long không thể phát triển rộng, mà thường là những bãi hẹp, hoặc tạo thành những viền hẹp ở sát bờ biển.

Tác động của con người khá mạnh vào các vùng RNM trong quá trình khai thác than, nhiều bãi triều có RNM bị lấp (Cọc 3, Hồng Gai) do đất đá thải từ mỏ xuống. Sự mở rộng đô thị cũng lấp đất, nên diện tích RNM ngày càng thu hẹp.

Diện tích RNM còn lại rất nhỏ, khoảng 380 ha (Cự và cs, 1996).

Tiểu khu 3: Từ Cửa Lục đến mũi Đồ Sơn (dài khoảng 55 Km)

Tiểu khu này nằm trong hệ thống cửa sông hình phễu Hải Phòng – Quảng Yên (Thạnh và cs, 1985). Địa hình bằng phẵng hơn hai tiểu khu 1, 2; ít chịu tác động của sóng lớn nhờ các đảo đá vôi ở cuối vịnh Hạ Long và các đảo lớn khác chắn ngoài như Cát Hải, Phù Long.

Một hệ thống sông tương đối lớn và kênh rạch đã chuyển phù sa ra ngoài cửa sông và được giữ lại, tạo nên những hòn đảo nổi gồm toàn cây ngập mặn như đảo Cái Viềng, Hòn Soài, Vũ Yên…

Nhìn chung trầm tích ở tiểu khu 3 phong phú hơn tiểu khu 2 và tiểu khu 1 nên RNM phát triển rộng và kích thước cây tương đối lớn. Các cụ già ở đảo Hoàng Tân cho biết: vào thế kỷ trước rừng ở đây rậm, cây cao 5 – 8 m có nhiều động vật và hải sản quí. Các luồng lạch có khuynh hướng mở rộng kết hợp với biển lấn nên thu hẹp diện tích bãi triều có thực vật ngập mặn ở phía biển. Nước mặn cũng ngược dòng sông Kinh Thày vào địa phận Đông Triều cách cửa sông khoảng 60 km kéo theo các loài cây nước lợ.

Tác động của con người khá lớn. Do mật độ dân số tăng nhanh ở vùng ven biển từ đầu thế kỷ 20 đến nay nên sự tàn phá RNM cũng xảy ra mạnh mẽ. Việc phá rừng để lấy đất sản xuất nông nghiệp trên qui mô lớn trước đây và việc đắp đầm nuôi tôm quảng canh tràn lan đã thu hẹp diện tích RNM huyện Yên Hưng và thị xã Uông Bí. Mặt khác việc khai thác quá mức cây ngập mặn để làm củi cũng khá phổ biến. Do đó mà ở tiểu khu này không còn dấu vết rừng nguyên sinh như tiểu khu 1. Việc đắp đê bao vây đảo Hà Nam và đảo Cát Hải tạo thành một bức ngăn làm cho độ mặn chênh lệch nhau giữa hai phần phía Bắc và phía Nam đã ảnh hưởng đến sự phân bố của một số loài cây ngập mặn.

Theo N. Đ. Cự và cs (1996) thì tổng diện tích đất ngập triều có phủ thực vật ngập mặn ở vịnh Cửa Lục là 2.184 ha chiếm 30% diện tích các kiểu đất ngập triều (7.237 ha). Các dải RNM ở vùng này phần lớn phân bố dọc ven biển huyện Hoành Bồ và một số bãi nổi. Tuy lưu lượng sông yếu nhưng nhờ vị trí kín sóng, độ mặn ổn định nên thực vật ngập mặn có điều kiện phát triển.

Nhưng gần đây do việc khai hoang lấn biển của quân khu 3 và địa phương nên RNM đang bị thu hẹp, môi trường đang thoái hóa (Hồng, 1994). Ở phía nam tiểu khu (trong phạm vi cửa sông Bạch Đằng từ Yên Lập đến Đồ Sơn) RNM trước đây phát triển mạnh với thành phần cây nước lợ ưu thế, nhưng do việc phá rừng và phát triển đầm nuôi tôm nên rừng bị suy giảm. Diện tích RNM còn 7.037 ha, chiếm 9% tổng diện tích đất ngập triều, trong đó có 5.259 ha là rừng dày và 800 ha rú bụi (Cự và cs, 1996). RNM tự nhiên là những dải nhỏ hẹp bao quanh các đầm nuôi hải sản cửa sông như đầm Nhà Mạc, Hà An, Đảo Công, Yên Lập, Uông Bí (Quảng Ninh), Phù Long, Tràng Cát, Lạch Tray và bắc Thủy Nguyên (Hải Phòng).

Đến giữa năm 1996, khu kinh tế công nghiệp Đình Vũ – Hải Phòng được hình thành trên cơ sở bỏ toàn bộ thảm thực vật ngập mặn tự nhiên ở đó với diện tích trên 1.000 ha (tổng số diện tích bán đảo Đình Vũ là 1.324 ha) chỉ dành 21 ha trồng cây bóng mát, cây cảnh làm vườn thực vật dùng cho việc giải trí cùng với các loài cây xen giữa các cơ sở khu công nghiệp, thương mại dân cư (Sở kinh tế đối ngoại Hải Phòng 5/1996).

Việc mất thảm thực vật RNM phòng hộ đang gây ra hiện tượng xói lở bờ biển ở Đình Vũ.

2.1.2.2. Khu vực II: Ven biển đồng bằng Bắc Bộ

Khu vực này chia làm hai tiểu khu

Tiểu khu 1: Từ mũi Đồ Sơn đến cửa sông Văn Úc.

Đây là vùng chuyển tiếp giữa khu vực I và II.

Địa hình: từ Đồ Sơn đến bờ bắc sông Văn Úc, cửa sông có dạng hình phễu với các đảo cát ngầm trước cửa sông, ngăn cản một phần cường độ của sóng, mặt khác mũi Đồ Sơn cũng góp phần che chắn, nên RNM có thể phân bố ở dọc các cửa sông. Do bờ biển bị xói lở nên không có dải cây ngập mặn cửa sông.

Điều đáng lưu ý ở tiểu khu này, cũng như tiểu khu 2 là do tốc độ quai đê lấn biển tương đối nhanh, ngăn nước mặn vào sâu trong đất liền, do đó mà RNM chỉ phân bố ở trong cửa sông.

Quần xã cây ngập mặn gồm những loài ưa nước lợ, trong đó loài ưu thế nhất là bần chua phân bố ở vùng cửa sông (Kiến Thụy, Tiên Lãng), cây cao 5-10m. Dưới tán của bần là sú và ô rô, tạo thành tầng cây bụi; một số nơi có xen lẫn hai loài sau hoặc phát triển thành từng đám. Trong những năm gần dây do phát triển đầm tôm nên các rừng bầncũng bị phá nhiều và thu hẹp diện tích.

Tiểu khu 2: Từ cửa sông Văn Úc đến cửa Lạch Trường, nằm trong khu vực bồi tụ của hệ sông Hồng

Ở đây cũng có một số điều kiện thuận lợi cho cây nước lợ như: địa hình phẳng, bãi triều rộng, giàu phù sa, lượng nước ngọt nhiều về mùa mưa. Nhưng do địa hình trống trải, các bãi tương đối bằng phẳng nên chịu tác động mạnh của sóng do gió bão tạo nên, đây là một yếu tố ngăn cản RNM hình thành tự nhiên ở vùng ven biển tiểu khu này.

Dọc từ bờ nam của cửa sông Văn Úc (huyện Thụy Hải), trước đây rừng bần chua phát triển mạnh, diện tích khá rộng. Trong cửa sông như cửa sông Trà Lý, Ninh Cơ, cửa sông Lèn, cửa Lạch Trường và một số lạch thì cây ngập mặn phát triển. Quần xã chủ yếu là sú và ô rô. Thỉnh thoảng có xen lẫn ít trang và bần chua. Tuy nhiên phạm vi phân bố hẹp vì dòng sông ít dốc và chịu ảnh hưởng mạnh của nước ngọt.

Do khai thác quá mức nên cây không phát triển được, thường là dạng bụi thấp, cằn cỗi.

Để bảo vệ đê, nhân dân ven biển huyện Thái Thụy, Tiền Hải (Thái Bình) và huyện Giao Thủy (Nam Định) đã trồng được những dải rừng trang gần như thuần loại ở phía ngoài đê. Đây là một cuộc đấu tranh khốc liệt với thiên nhiên, tỷ lệ sống rất thấp, nhưng với quyết tâm lớn những rừng trang với cây cao 4-5 m, đường kính 5-10 cm đã hình thành dọc theo đê biển, có tác dụng giữ đất bồi, bảo vệ đê mấy chục năm vừa qua. Việc trồng trang cũng đã tạo điều kiện cho một số loài tái sinh tự nhiên như sú, bần chua; là môi trường sống cho nhiều hải sản và chim di cư.

Hiện nay ở tiểu khu này có khoảng 8.000 ha RNM, chủ yếu là rừng trồng hỗn hợp trang, bần chua và đâng để bảo vệ đê trong những năm gần đây.

2.1.2.3. Khu vực III: Ven biển Trung bộ: từ mũi Lạch Trường đến mũi Vũng Tàu

Do địa hình trống trải sóng lớn, bờ dốc nên nói chung không có RNM dọc bờ biển, trừ các bờ biển hẹp phía Tây các bán đảo nhỏ ở Nam Trung Bộ như bán đảo Cam Ranh, bán đảo Quy Nhơn (nay rừng ở đây đã không còn do bị phá làm đầm tôm). Chỉ ở phía trong các cửa sông, cây ngập mặn mọc tự nhiên, thường phân bố không đều, do ảnh hưởng của địa hình và tác động của cát bay.

Dựa vào đặc điểm địa mạo, thủy văn, có thể chia bờ biển Trung bộ làm 3 tiểu khu:

Tiểu khu 1: Từ Lạch Trường đến Mũi Ròn

Ở các cửa sông nhỏ phía nam, có doi cát do sóng bồi đắp đã tạo nên những vịnh (lagoon) nhỏ. ở các bãi triều nằm sau doi cát, trước đây RNM phát triển khá phong phú, nhưng nay đã bị chặt phá hết. Mặt khác nhân dân địa phương đắp đê lấy đất sản xuất nông nghiệp nên RNM có chỗ phân bố hẹp.

Ở sát các cửa sông lớn như sông Mã, sông Lam, lòng sông luôn thay đổi, bên lở bên bồi, các bãi phù sa không ổn định và được nâng lên hoặc bị xói lở nhanh nên không có loài cây nào tồn tại lâu.

Thảm thực vật nước lợ thường phân bỗ ở phía trong cách cửa sông 100-300m. Ví dụ như rừng bần chua ở trong cửa sông phân bỗ dọc theo sông ở xã Hưng Hòa, thành phố Vinh, từ Xuân Hội đến Xuân Tiên – Hà Tĩnh. Thành phần ưu thế là bần chua, kích thước cây khá lớn: cao trung bình 6-8m, đường kính 20-30cm. Rừng bần ở Hưng Hòa có nhiều cây có đường kính 1 – 1,3 m, nhưng hàng năm bị chặt hết phần cành nên cây không cao Về mùa khô lá rụng hết, trên cành có địa y hình cành bì sinh thành từng đám lớn.

Dưới tán bần là thảm ô rô dày đặc, thỉnh thoảng có vài đám cói hoặc sú xen lẫn ô rô. Trên nền đất ngập triều cao córáng, vạng hôi, mớp sát và giá. Trong những năm gần đây, dòng sông đổi hướng đã gây xói lở một số xã, trong đó có rừng bần ở Xuân Hội, Xuân Trường.

Trong chiến tranh và những năm hòa bình, các dải rừng bị tàn phá nặng nề, có chỗ bây giờ không còn vết tích rừng, có chỗ cây cằn cỗi thành dạng rú bụi thấp. Do đắp đập nên nhiều nơi nước đã bớt mặn và bần chua tái sinh tự nhiên khá nhanh; vài chỗ đã trồng lại rừng trang. Các bãi hoang với cỏ chịu mặn còn khá hơn.

Dọc một số sông nhỏ như sông Nghèn, sông Rào, sông Kinh (nam Hà Tĩnh) nước triều lấn sâu vào đất liền nên cũng có thảm thực vật ngập mặn, phía trong cửa sông có mắm, đâng, sú, vẹt dù; đi sâu vào các bãi sông nước lợ có quần xã bần chua ưu thế với các loài ô rô ở tầng thấp.

Trên bờ hoặc một số bãi cao có giá, cóc, vẹt dù, cui biển, mớp sát…(Hà Tĩnh) phát triển mạnh mẽ. Vào thập kỷ 40, rừng ở vùng này khá tốt, có những cây bần cao 8-10m, đường kính 25-30cm, nhưng do khai thác quá mức, do bom đạn nên rừng đã bị thoái hóa gần hết.

Hiện nay một số nơi mắm, ô rô đang tái sinh. Những chỗ đất thoái hóa thì sài hồ mọc dày đặc. Từ cuối thập kỷ 1990 đến 2004, việc trồng, phục hồi rừng phòng hộ từ chương trình 337, 661, đặc biệt là các dự án trồng RNM do NGOs tài trợ đã đem lại hiệu quả cao, và rừng phát triển tốt.

Tiểu khu 2: Từ mũi Ròn đến mũi đèo Hải Vân

Trước thời kỳ chiến tranh chống Mỹ, RNM phát triển tốt dọc từ cửa sông vào như sông Ròn, sông Gianh, sông Đại Giang (Quảng Bình), sông Bến Hải, sông Cam Lộ,… Thảm thực vật ngập mặn ở bến phà Ròn và bến phà Gianh có chiều cao trung bình 6-8m. Loài ưu thế là đâng, vẹt dù, vẹt khang. Dưới tán của chúng có trang, sú, ô rô ở dạng bụi. Ngoài ra trên vùng đất chỉ ngập triều cao có giá, tra, tra lâm vồ, mớp sát, cui biển, vạng hôi.

Dọc các triền sông, vào sâu trong nội địa có những rừng bần chua ưu thế, kích thước cây lớn (cao 8-10m, đường kính 20-30cm), có chỗ cách xa biển tới gần 40km như xã Minh Cầm. Dưới tán bần là ô rô và cói cùng một số loài cỏ năn.

Phần phía nam tiểu khu 2 hình thành những đầm phá (lagoon) phần lớn nằm sau các cồn cát với toàn bộ diện tích vực nước 21.600ha, trong đó diện tích các bãi triều chiếm khoảng 1.600ha. Các bãi triều hẹp vì biên độ triều rất nhỏ (0,5m). Các bãi này phân bố không liên tục, thường chỉ rộng 50-100m, một phần đất bị quai đê để sản xuất nông nghiệp.

Do chịu ảnh hưởng mạnh của nước ngọt trong mùa lũ nên độ mặn giao động nhiều, từ 0,5 đến 28,12‰. Thành phần thực vật gồm bần chua, sú. Ngoài ra còn có đâng, vẹt dù, trang, ô rô. Nhân dân địa phương chặt phá cây làm củi nên thảm thực vật cằn cỗi ở dạng cây bụi. Riêng khu vực đầm Lăng Cô ở chân đèo Hải Vân rộng khoảng 1.500 ha, có diện tích bãi triều khoảng 300 ha còn lại một ít cây ngập mặn dạng bụi.

Thảm thực vật ngập mặn trước đây khá tốt, thành phần loài khá phong phú. Ngoài các loài đã gặp ở miền bắc còn một số loài khác phân bố chủ yếu ở miền nam như đưng, mắm trắng, bần ổi chịu độ mặn cao trong mùa khô (29-35,5‰) do địa hình kín, lượng bốc hơi nước cao như phía đông thôn An Cự. Đi xa cửa sông vào đất liền, nồng độ muối thấp dần do đầm nước ngọt từ các suối nhỏ như Hói Mít, Hói Dừa, Hói Cam, nên các loài ưa nước lợ phát triển: bần chua, ôrô, cốc kèn,…Trên bờ đầmcó giá, tra, cui biển, cóc vàng… ở những đất cát ướt có một số loài mọng nước thân cỏ như sam biển, muối biển mọc thành đám.

Hiện nay RNM ở Lăng Cô cũng bị tàn phá nhiều nên diện tích thu hẹp, số loài giảm.

Tiểu khu 3: Từ mũi đèo Hải Vân đến mũi Vũng Tàu

Dựa vào kết quả nghiên cứu của J. Barry, L. C. Kiệt, V. V. Cương (1961) ta thấy có các kiểu quần xã đước trước đây ở phía tây bán đảo Cam Ranh.

– Quần xã đưng tiên phong trên đất thấp

– Quần xã đưng và đước đôi trên đất chặt hơn với các loại xu ổi, vẹt dù, vẹt khang.

– Quần xã mắm quăn và mắm lưỡi đòng với các loài côi, cóc biển, dà vôi

– Trên đất ít khi ngập triều có quần xã cây gỗ giống như ở khu vực khác với các loài giá, xu, tra, vạng hôi, mớp sát…

– Quần xã nước lợ bần chua và ô rô gai, mây nước…

Hiện nay các quần xã này đã bị biến mất thay vào đấy là các ao ương tôm sú và đầm nuôi tôm

2.1.2.4. Khu vực IV: Ven biển Nam Bộ

Có thể chia khu vực IV làm 4 tiểu khu

Tiểu khu 1: từ mũi Vũng Tàu đến cửa sông Soài Rạp (ven biển đông Nam Bộ)

Trong chiến tranh hóa học hầu hết vùng RNM ở đây (rừng Sát) đã bị hủy diệt. Sau một thời gian rừng tái sinh nhưng do thiếu nguồn giống và do sự khai thác quá mức của dân địa phương vì thiếu củi đun nên nhiều chỗ không còn cây, đất bị thoái hóa nặng.

Từ năm 1978 phần lớn diện tích vùng bị hủy diệt đã được trồng lại bằng loài đước.

Từ năm 1990 cảnh sắc vùng này đã có nhiều biến đổi. Một số quần xã tự nhiên đang được phục hồi, nhiều loài động vật trên cạn và dưới nước đã đến sinh sống tạo ra sự đa dạng sinh học cao. Một số rừng trồng năm 1978 nay đã tỉa thưa được một khối gỗ, củi lớn.

Tiểu khu 2: Từ cửa sông Soài Rạp đến cửa sông Mỹ Thanh (ven biển đồng bằng sông Cửu Long)

Cho đến 1990 chưa có một tài liệu chính thức nào viết riêng về RNM ở đồng bằng sông Cửu Long. Các tài liệu đã công bố trước đây (Maurand, 1943, Rollet 1962, Thôn, Lợi 1972, Trừng 1970 – 1978, Ross 1975) cũng chỉ nêu vài nét rất sơ lược về vùng này.

Nhân dân địa phương cho biết cách đây 20 năm RNM khá tốt, che kín cả nhà cửa thôn ấp dọc các triền sông. Những gốc bần, gốc mắm bị chất độc hóa học phá hủy còn sót lại có kích thước khá lớn (có gốc đường kính tới 60cm) cũng đã xác minh điều đó.

Cảnh sắc thực vật ngập hiện nay đã thay đổi hoàn toàn, chỉ trừ một số khoảnh rừng mắm trắng ven sông nhân dân giữ lại để bảo vệ đất vườn, nhà ở hoặc bần chua ở sát cửa sông, ven biển có kích thước tương đối lớn cùng với các dải dừa nước ven sông, còn lại là dạng trảng cây bụi hoặc trảng bụi gai… Có tình trạng đó là do hầu hết rừng bị hủy diệt bởi bom đạn và chất độc hóa học của Mỹ. Phần còn lại bị nhân dân chặt phá mạnh. Trên vùng đất bị rải chất độc hóa học còn ngập triều định kỳ CNM tái sinh khá nhanh, sau ngày giải phóng nhân dân lại tiếp tục khai thác cây làm củi, do đó rừng bị kiệt quệ.

Trong vài năm gần đây việc trồng rừng đã được chú ý nên một số nơi rừng bắt đầu khôi phục, như vùng cửa sông ven biển tỉnh Bến Tre và tỉnh Cà Mâu.

Tiểu khu 3: Từ cửa sông Mỹ Thanh đến cửa sông Bảy Háp (tây nam bán đảo Cà Mâu)

Các quần xã cây ngập mặn

Các quần xã này phần lớn là dạng rừng già (đước, vẹt tách) có nhiều cây mắm biển lớn (đường kính 35-50cm), thân rỗng ruột, phân cành nhiều và thấp, dáng cây không thẳng, có khi xen lẫn một ít giá, mắm lưỡi đòng. Giá trị kinh tế kém, chủ yếu là rừng phòng hộ ven biển, phân bố dọc cửa sông Bồ Đề đến xóm Khai Long (Đất Mũi).

Hiện nay diện tích đang thu hẹp do xói lở ở bờ biển phía đông.

Rừng trồng:

Chủ yếu là rừng trồng từ những năm 1940 tập trung nhiều ở khu rừng Kiểng. Cây cao 23-25m, đường kính 20 – 30cm, rừng thuần loại hoặc có ít dà, vẹt. Hiện nay đã bị khai thác nhiều để làm đầm tôm, hoặc chặt phá.

Rừng đước trồng từ 1975 đến nay trên đất bị rải chất độc hóa học hoặc rừng đã khai thác. Hiện nay loại rừng 9 tuổi đã cao 8 – 9m, đường kình 4-6cm, loại 4-5 tuổi đang kép tán. Cả hai loại rừng này đều cần tỉa thưa.

Vào cuối thập kỷ 1980 và đầu thập kỷ 90, nhiều khu rừng trồng đã bị phá làm đầm tôm.

Rừng dừa nước được nhân dân trồng ven các kênh rạch sâu trong nội địa. Giá trị kinh tế lớn.

Tiểu khu 4: Từ cửa sông Bảy Háp (mũi Bà Quan) đến mũi Nãi – Hà Tiên (bờ biển phía tây bán đảo Cà Mâu)

Về khí hậu, có nhiều đặc điểm thuận lợi cho các loài cây nước lợ sinh trưởng nhưng do ít trầm tích nên CNM không xâm nhập sâu, thường chúng chỉ tạo thành 1 quần xã ở đường viền ven biển: thành phần chủ yếu là mắm trắng, mắm lưỡi đòng đôi khi có một số cây đưng mọc rải rác xen lẫn với mắm. Kích thước cây cững không quá 15m. Phía trong rừng mắm là rừng tràm (Melaleuca cajuputi) hoặc có khi ngoài là rừng mắm rồi đến cánh đồng lúa tiếp đó là rừng tràm.

Ở đảo Hòn Tre (Rạch Giá) thảm thực vật ngập mặn cũng chỉ hình thành những mảng nhỏ dọc bờ biển phía đông của đảo. Quần xã gồm thành phần chủ yếu đước dạng cây gỗ nhỏ cao từ 2-6m. Ngoài ra có sú, mắm biển, xu ổi trên đất ít ngập có tra lâm vồ, thiên lý dại, vạng hôi và có các dạng cây thảo như ráng,cốc kèn (Ngân, Kiệt và Thùy 1967).

2.1.3. Đánh giá hiện trạng về chất lượng, giá trị đa dạng sinh học… rừng ngập mặn ven biển

Số lượng các loài sinh vật nổi vận động theo thuỷ triều vào RNM rất biến động theo thời gian và theo các địa điểm. Cá trong RNM chủ yếu là những loài sống định cư ở những nơi còn tồn đọng nước hay các đầm nuôi thuỷ sản, trừ những “khách vãng lai” ra vào theo thuỷ triều. Tương tự như cá, động vật đáy thường là những loài sống định cư cả đời hoặc ở phần lớn những giai đoạn phát triển sớm của sự phát triển cá thể của chúng trong RNM. Đối với chim, một số loài là cư dân chính thức của RNM, nhiều loài như mòng két, ngỗng, vịt trời, giang, sếu… là những chim di cư từ phương bắc về tránh rét trong mùa đông. Phần lớn chúng coi RNM cửa sông nước ta là trạm dừng chân trên hành trình bay xuống các vùng nhiệt đới xích đạo phía Nam kể cả phần bắc của Nam bán cầu như Australia.

Nhiều loài tôm, cua, cá sống ở rừng ngập mặn và cửa sông, khi thành thục, lại tìm ra vùng biển sâu hoặc sâu hơn để giao phối và đẻ trứng. Thời gian trứng phát triển đến giai đoạn hậu ấu trùng phải trải qua 14 – 17 ngày, khoảng thời gian cần thiết để chúng trôi dạt từ bãi đẻ vào vùng cửa sông và RNM (Frusker, 1983; Gwyther, 1993). Ngược lại, trong thời gian ngập triều, trong RNM có thể gặp cá con của nhiều loài cá thuộc vùng nước nông thềm lục địa vào RNM cửa sông kiếm ăn và tránh kẻ thù. Nhiều loài cá đẻ trứng hoặc ấu trùng của chúng sống trong các kênh rạch vùng RNM.

Nhiều loài động vật biển khác cũng xâm nhập vào RNM để kiếm ăn. Nhờ vậy, RNM trở thành “cái nôi” ương nuôi những ấu thể của nhiều loài động vật biển, nơi dinh dưỡng của không ít những loài động vật trưởng thành. Một số loài cá và giáp xác coi RNM cửa sông là địa bàn bắt buộc của sự phát triển cá thể ở những giai đoạn sớm của đời sống (Tạng, 1994).

Đối với nhiều động vật trên cạn mà cuộc sống gắn liền với bãi triều, chúng thường xuất hiện đông đúc khi nước ròng và phơi bãi. Những lạch triều cạn, những vũng nước sót lại và các bãi bùn… là nơi tập trung của các loài chim như gà nước (Rallus sp.), choi choi (Charadrius sp.), choắt (Numenius sp., Triga sp.), giẽ giun (Gallinago sp.), cà kheo (Himantopus sp.), cò bợ (Ardeola sp.), diệc (Ardea sp.), … Sát mép nước là các loài vịt trời (Anas sp.), mòng biển (Larussp.), ngỗng trời (Anser anser)… nhiều loài rắn (Chrysoplea lernata), cầy, lợn rừng (Sus scrofa)… từ nơi cao cũng xuống bãi tìm kiếm thức ăn. Điều đó một lần nữa khẳng định rằng, RNM là một trong những hệ sinh thái quan trọng trong việc bảo tồn đa dạng sinh học cho đới biển ven bờ, đồng thời duy trì nguồn lợi sinh vật tiềm tàng cho sự phát triển bền vững trước hết đối với nghề cá.

2.1.3.1. Vùng ven biển có RNM ở Đông Bắc (Khu vực 1 – KV1): Trường hợp nghiên cứu huyện Tiên Yên, Quảng Ninh

Tài nguyên sinh học KV1 khá phong phú, tuy nhiên do khai thác quá mức nên nguồn lợi đang cạn kiệt, và hệ sinh thái cũng suy thoái nghiêm trọng, chỉ ở một số đảo nhỏ là còn tương đối.

Thực vật

Thành phần thực vật ở khu Đông Bắc nói chung và Tiên Yên nói riêng mang tính chất của hệ thực vật á nhiệt đới gần giống với thực vật ở bờ biển tỉnh Phúc Kiến, đảo Đài Loan (Trung Quốc) và đảo Irimote thuộc quần đảo Ryu Kyu – Nhận Bản.

Theo Phan Nguyên Hồng (1991), hệ thực vật có 16 loài cây chủ yếu thuộc 14 họ và 34 loài tham gia RNM thuộc 17 họ. Thảm thực vật chỉ có các quần xã cây thích nghi với độ mặn cao:

Quần thể mắm biển (Avicennia marina) phân bố ở trên các bãi cát và bãi đang bồi, đây là quần thể tiên phong trên đất ngập triều trung bình thấp.

Quần xã đâng (Rhizophora stylosa) – trang (Kandelia obovata) – sú (Aegiceras corniculatum) sống trên đất ngập triều trung bình. Trong quần xã này sự phân bố ở đường biên dọc sông nước mặn đôi khi xen lẫn ít mắm còn lại. Phía trong là đâng và trang mọc xen kẽ nhau.

Quần xã đâng – trang – vẹt dù (Bruguiera gymnorrhiza) phân bố trên đất ngập triều trung bình cao, loài ưu thế là đâng

Quần xã vẹt dù – đâng, phân bố trên những bãi đất bùn hơi rắn hoặc các bãi có đá, chỉ ngập triều cao. Trong quần xã này vẹt dù là loài ưu thế.

Quần thể vẹt dù, phân bố ở trên nền đá xương xẩu, ít khi ngập triều.

Quần xã côi (Scyphiphora hydrophyllacea) – giá (Excoecaria agallocha) – cóc vàng (Lumnitzera racemosa) dạng cây bụi trên nền đất bùn hơi cứng, nhiều sỏi hoặc đất thoái hoá, chỉ ngập triều cao.

Quần xã tra (Hibiscus tiliaceus) su ổi (Xylocarpus granatum) – hếp (Scaevola taccada) phân bố trên các bờ biển có đất mặn ít khi ngập triều. Trong quần xã này còn có nhiều loài cây chịu mặn khác như đậu tím (Pongamia glabra), cui biển (Heritiera littoralis), vạng hôi (Pandanus tonkinensis), ráng (Acrostichum aureum) và nhiều loài thân cỏ.

Động vật đáy: 71 loài thuộc 28 họ (Nhượng và Khắc 2003; Hồng và cs 2002)

Cá: 194 loài thuộc 70 họ (Tạng 2004)

Chim: 38 loài thuộc 17 họ (Sâm và cs 2005)

2.1.3.2. Vùng ven biển đồng bằng sông Hồng: Trường hợp nghiên cứu huyện Giao Thuỷ, Nam Định

Thảm thực vật

Qua khảo sát vùng RNM các xã ven biển huyện Giao Thuỷ, Phan Nguyên Hồng và cs (2004) đã thống kê được tổng số 182 loài thuộc 137 chi của 60 họ thực vật có mạch. Lớp Hai lá mầm có số loài, chi và họ nhiều nhất, 123 loài (chiếm 67,4% tổng số loài) thuộc 47 họ. Ngành Dương xỉ có số loài chiếm tỷ lệ ít nhất, 8 loài (4,3%) thuộc 6 chi của 5 họ. Các loài thuộc lớp Một lá mầm mặc dù chỉ có 51 loài (chiếm 28,3%) thuộc 8 họ (bảng 3) nhưng chúng là những loài có số lượng cá thể lớn trong các bãi cỏ, ngập nước triều định kỳ hoặc triều cao.


2.2 Phân bố các loài cây ngập mặn ở Việt Nam

Ở nước ta, Phan Nguyên Hồng là người đầu tiên đã đề cập đến phân bố địa lý và diễn thế các quần xã rừng ngập mặn, ngoài ra một số tác giả khác cũng đã nghiên cứu vấn đề này như: Vũ Văn Cương, Nguyễn Ngọc Bình, Ngô Đình Quế, Nguyễn Hoàng Trí, Phùng Trung Ngân và Châu Quang Hiển, Nguyễn Văn Thôn và Lâm Bỉnh Lợi, Thái Văn Trừng

Sự có mặt của một loài thực vật ngập mặn ở một vùng cụ thể nào đó tùy thuộc vào điều kiện sinh thái khu vực. Ở nước ta, Phan Nguyên Hồng là người đầu tiên đã đề cập đến phân bố địa lý và diễn thế các quần xã rừng ngập mặn, ngoài ra một số tác giả khác cũng đã nghiên cứu vấn đề này như: Vũ Văn Cương, Nguyễn Ngọc Bình, Ngô Đình Quế, Nguyễn Hoàng Trí, Phùng Trung Ngân và Châu Quang Hiển, Nguyễn Văn Thôn và Lâm Bỉnh Lợi, Thái Văn Trừng, v.v… Theo các tác giả, rừng ngập mặn Việt Nam được chia thành 4 khu vực:

2.2.1 Khu vực I: Ven biển Đông Bắc, từ mũi Ngọc đến mũi Đồ Sơn

Bờ biển bị chia cắt phức tạp tạo nên các vịnh ven bờ và các cửa sông hình phễu, có nhiều đảo bảo vệ, hạn chế gió bão. Các sông chính thường có độ dốc lớn, dòng chảy mạnh chuyển phù sa ra bờ chỉ giữ lại trên thể nền đất bùn sét có cát, tương đối phù hợp với sự sinh trưởng của cây ngập mặn. Lượng mưa hàng năm khá lớn (trên dưới 2500mm), mùa mưa thường kéo dài từ tháng 4 đến tháng 11; mùa khô cũng có mưa (chiếm 20 – 25% lượng mưa/năm), nhờ đó mà cây ngập mặn vẫn có một lượng nước phong phú và đồng đều. Độ mặn của nước triều trong năm tương đối cao và ít thay đổi phù hợp với một số loài cây chịu mặn cao.

Tuy thảm thực vật ngập mặn phân bố rộng khắp ở khu vực này nhưng cây có kích thước bé, phần lớn là cây nhỏ, cây gỗ lùn hoặc dạng cây bụi do chịu tác động của nhiệt độ thấp, gió mùa đông bắc và do đất nghèo chất dinh dưỡng, trừ khu vực phía bắc có nhiều phù sa, lượng mưa lớn và ít chịu tác động của con người. Các quần xã chủ yếu là:

· Quần xã mắm biển (Avicennia marina) tiên phong với các loài cỏ gà, muối biển (Suaeda maritima) trên các bãi mới bồi nhiều bùn cát, xa bờ, ngập triều trung bình thấp.

· Quần xã sú (Aegiceras corniculatum) ở gần bờ, có các loài phụ: mắm biển, cỏ gấu biển (Cyperus stoloniferus), trên các bãi ngập triều trung bình thấp.

· Quần xã hỗn hợp đâng (Rhizophora stylosa), trang (Kandelia candel), vẹt dù (Bruguiera gymnorrhiza), sú trên đất ngập triều trung bình.

· Quần xã vẹt dù ưu thế với các loài đâng, trang, sú ở trên đất chỉ ngập triều cao trung bình trở lên.

· Quần xã cây gỗ trên đất chỉ ngập triều thật cao: xu (Xylocarpus granatum), cui biển (Heritiera littoralis), giá (Exoecaria agallocha), côi (Scyphiphora hydrophyllacea), tra (Hibiscus tiliaeus), hếp (Scaevola taccada), mướp sát (Cerbera odolans), vạng hôi (Clerodendron inerme).

· Quần xã hỗn hợp gồm: mắm biển, bần chua (Sonneratia caseolaris), sú và các loài phụ đâng, vẹt, trang ở ngoài đê biển vùng nước lợ phía Nam từ sông Đá Bạc đến mũi Đồ Sơn.

2.2.2 Khu vực II: Ven biển đồng bằng Bắc Bộ, từ mũi Đồ Sơn đến cửa Lạch Trường:

Khu vực này nằm trong phạm vi bồi tụ của hệ thống sông Thái Bình, sông Hồng và các phụ lưu, nên phù sa nhiều, giàu chất dinh dưỡng, biên độ triều lớn 3 – 4 m, bãi bồi rộng ở cả cửa sông và ven biển, nhưng chịu tác động của gió, bão nên cây ngập mặn kém phát triển. Ở khu vực này tốc độ quai đê lấn biển tương đối nhanh nên cây ngập mặn chỉ phân bố hẹp ngoài đê, ven các cửa sông. Các quần xã chính là:

· Quần xã cây bụi thấp: sú (A. corniculatum) và ô rô (Acanthus ilicifolius) cằn cỗi trên nền cát bùn.

· Quần xã cây nước lợ điển hình: bần chua ưu thế ở tầng cao; các loài cây khác: ô rô, cói (Cyperus malaensis), sú phân bố trên bãi lầy có bùn sâu, trong các cửa sông.

Từ cửa sông Văn Úc trở vào dọc bờ biển hầu như rất ít rừng ngập mặn tự nhiên, trên các bãi lầy chỉ có một số loài chịu mặn như cỏ gấu biển, cỏ gà, đặc biệt là cỏ ngạn (Scirpus sp.) phát triển mạnh, có khi che kín cả bãi, thu hút các loài ngỗng, vịt trời đến kiếm ăn thành từng đàn như ở Giao Thủy (Nam Định) và Kim Sơn (Ninh Bình). Từ lâu nhân dân ta đã trồng trang (Kendelia candel) và sậy (Phragmites communis) để bảo vệ đê, tạo thành quần xã nhân tạo trang – sậy với các loài cỏ mọc tự nhiên dài hàng chục cây số. Chỉ trong các cửa sông mới có các quần xã cây ngập mặn tự nhiên với các loài cây chủ yếu là sú và ô rô. Do nhân dân chặt quá mức nên rừng chỉ còn ở dạng cây bụi thấp, cằn cỗi.

2.2.3 Khu vực III: Ven biển miền Trung từ cửa Lạch Trường đến mũi Vũng Tàu:

Đây là dải đất hẹp, trừ một phần phía bắc từ Diễn Châu (Nghệ An) trở ra, bờ biển song song với dãy Trường Sơn, sông ngắn, dốc, ít phù sa không thể bồi đắp thành bãi lầy ven biển. Mặt khác, do bờ biển dốc, sâu nên không giữ được lượng phù sa ít ỏi. Khu vực này cũng chịu tác động mạnh của gió bão và gió mùa. Mưa tập trung nhiều vào thời kỳ bão, gây ra nước biển dâng và lũ lụt. Gió mùa đông bắc ngoài tác động gây ra sóng lớn, nhiệt độ thấp, còn tạo ra các cồn cát, đụn cát ven biển, làm cho địa hình phức tạp và cát bay làm thu hẹp các cửa sông. Dọc bờ biển không có cây ngập mặn mà chỉ có ở phía trong các cửa sông làm thành một số dải hẹp, phân bố không đều, do ảnh hưởng của địa hình, sóng và tác động của các đụn cát. Các quần xã chủ yếu là:

-Quần xã tiên phong mắm biển dọc các bãi lầy ở các cửa sông

-Quần xã hỗn hợp đâng – trang với các loài khác là vẹt, sú.

-Quần xã cây bụi thấp: sú ưu thế; các loài phụ: vẹt dù, mắm biển.

-Quần xã cây nước lợ với bần chua ưu thế, dưới bần là ô rô, cói.

Từ mũi đèo Hải Vân trở vào, khí hậu thuận lợi do không còn chịu ảnh hưởng của gió mùa đông bắc nên thành phần loài phong phú hơn.

-Quần xã đưng (R. mucronata) tiên phong ở bờ biển phía tây các bán đảo.

-Quần xã đưng và đước (R. apiculata) với các loài xu ổi, vẹt dù, vẹt tách (B. parviflora).

-Quần xã mắm quăn (A. lanata) và mắm lưỡi đòng (A. offcinalis) trên đất ngập triều cao với các loài phụ: côi (Scyphiphora hydrophyllacea), cóc đỏ (Lumnitzera littoralis), dà quánh (Ceriops decandra).

-Quần xã hỗn hợp cây ít ngập triều: tra – xu – mướp sát – giá với các loài vạng hôi, hếp, cui và chà là (Phoenixpaludosa).

-Quần xã nước lợ: bần chua vẫn là loài ưu thế, ô rô gai, cói, ngoài ra còn có mây nước (Flagellaria indica), cóc kèn (Derris trifoliata).

2.2.4 Khu vực IV: Ven biển Nam bộ, từ mũi Vũng Tàu đến Hà Tiên:

Khu vực này thuộc phạm vi bồi tụ của hệ thống sông Cửu Long và hệ thống sông Đồng Nai. Địa hình bằng phẳng, thấp, sông và kênh rạch chằng chịt, nhiều phù sa giàu chất dinh dưỡng, lượng nước ngọt về mùa mưa lớn, ít chịu tác động của bão. Gió mùa tây nam và dòng chảy từ Ấn Độ Dương và biển Đông đã chuyển hạt cây giống từ vùng xích đạo lên. Nói chung, điều kiện khá thuận lợi cho cây ngập mặn sinh trưởng và phân bố rộng, các quần xã cũng phong phú nhất, đặc biệt là các vùng ven biển Tây Nam Bộ và bán đảo Cà Mau. Khu vực này có các tiểu vùng với các cây ngập mặn chính như sau:

– Tiểu vùng 1: Từ cửa sông Soài Rạp đến cửa sông Mỹ Thanh (ven biển đồng bằng sông Cửu Long): Mắm trắng (A. alba), bần trắng (Sonneratia alba), đưng (R. mucronata), đước (R. apiculata), vẹt tách (Bruguiera paviflora), dà vôi (Ceriops tagal), mắm biển (A. marina), mắm quăn (A. lantana), mắm đen (A. officinalis), dà quánh (C. decandra), giá (Excoecaria agollocha), chà là (Phoenix paludosa), bần chua (Sonneratia caseolaris), ô rô (Acanthus ilicifolius), dừa nước (Nypa fruticans), tra(Hibiscus tiliaceus), tra biển (Thespesia populnea), cóc vàng (Lumnitzera racemosa).

– Tiểu vùng 2: Từ cửa sông Mỹ Thanh đến cửa sông Bảy Háp (tây nam bán đảo Cà Mau): Mắm trắng (A. alba), mắm biển (A. marina), mắm đen (A. officinalis), đưng (R. mucronata), đước (R. apiculata), dà vôi (Ceriops tagal), dà quánh (C. decandra), giá (Excoecaria agollocha), ô rô (Acanthus ilicifolius), dừa nước (Nypa fruticans), cóc vàng (Lumnitzera racemosa), vẹt tách (Bruguiera sexangula).

– Tiểu vùng 3: Từ cửa sông Bảy Háp (mũi Bà Quan) đến mũi Nãi – Hà Tiên (bờ biển phía tây bán đảo Cà Mau): Mắm trắng (A. alba), mắm biển (A. marina), mắm đen (A. officinalis), bần trắng (Sonneratia alba), đước (R. apiculata), dà vôi (Ceriops tagal), vẹt dù (Bruguiera gymnorrhiza), giá (Excoecaria agollocha), bần chua (Sonneratia caseolaris), dừa nước (Nypa fruticans), tra biển (Thespesia populnea), cóc vàng (Lumnitzera racemosa).

2.3 Các mối đe doạ chính đối với rừng ngập mặn ven biển

Rừng ngập mặn có vai trò quan trọng trong nền kinh tế xã hội và môi trường, nhưng nhiều nhà quản lý, nhà qui hoạch và hoạch định chính sách vẫn chưa hiểu hết giá trị nhiều mặt của nó, nên bằng cách này hay cách khác như cho đấu thầu đất làm đầm tôm, thiếu kiên quyết xử lý các vụ phá hoại, phát triển các khu công nghiệp, đô thị trên vùng rừng ngập mặn… gây ra những hậu quả nghiêm trọng đối với hệ sinh thái có năng suất cao nhưng rất nhạy cảm này. Những mối đe doạ đối với hệ sinh thái rừng ngập mặn rất đa dạng và phức tạp gồm cả các yếu tố tự nhiên và con người.

Bão lụt, sóng thần, nước biển dâng là những đe doạ bất thường, song cũng chỉ xẩy ra từng thời điểm, từng vị trí và mức độ đe doạ nhiều hay ít còn phụ thuộc vào không gian phân bố của thảm thực vật ngập mặn, thành phần, tuổi cây…

Còn tác động của con người, nhất là trong thời kỳ phát triển kinh tế đã trở thành những nguyên nhân hàng đầu dẫn đến sự biến đổi, làm mất cân bằng và suy thoái của hệ sinh thái rừng ngập mặn, làm giảm đa dạng sinh học và nguồn lợi sinh vật ven bờ nơi mà dân cư tập trung đông đúc. Chính vì vậy, con người đã trở thành mối đe doạ lớn nhất khi hành động của họ nhằm đạt được lợi ích trước mắt hoặc cục bộ.

2.3.1 Sức ép về dân số

Do tính đặc thù của vùng địa lý bị chia cắt bởi các sông và kênh rạch, nên thường những cộng đồng sống trong vùng rừng ngập mặn (RNM) không có điện, phương tiện giao thông khó khăn; các hoạt động tinh thần, văn hoá, thông tin rất hạn chế; thanh niên lập gia đình sớm, tỷ lệ sinh đẻ cao; ít hiểu biết về môi trường; địa bàn xa cơ quan quản lý nên việc chặt phá RNM là khó tránh khỏi nếu không có biện pháp cải thiện cuộc sống của họ và tuyên truyền giáo dục kịp thời.

2.3.2. Khai thác quá mức nguồn lợi sinh vật

3.2.1. Lâm sản

Trong những năm gần đây, mặc dầu RNM đã bị suy thoái nghiêm trọng, diện tích thu hẹp nhưng một số lâm trường (Cà Mâu) vẫn tiếp tục khai thác, nhiều gia đình ở Ngọc Hiển vẫn chặt trộm gỗ đước để đốt than.

3.2.2. Hải sản

Bên cạnh việc phá rừng vì các mục đích kinh tế thì việc khai thác hải sản quá mức trên các bãi lầy như đánh bắt cá bớp, cá thòi lòi, cua, còng, các loài thân mềm .v.v… khiến cho tài nguyên cạn kiệt, mất nơi kiếm ăn của chim nước, chim di cư trong đó có những loài quí, hiếm. Việc sử dụng các lưới vây mắt nhỏ quanh các RNM trồng, sử dụng xung điện, chất nổ trên các sông rạch đã làm cho nguồn lợi hải sản trong vùng RNM cạn kiệt. Cũng cần nói thêm là do chạy theo lợi nhuận trước mắt, không có qui hoạch tổng thể để phát triển sản xuất ở vùng ven biển nên nhiều địa phương đã và đang cho đấu thầu những diện tích lớn bãi triều lầy có RNM để làm đầm tôm; đấu thầu các bãi cát – bùn trước RNM để nuôi vạng, nghêu; thu hẹp nơi kiếm sống hàng ngày của người dân nghèo nên bắt buộc họ phải dùng một số dụng cụ có tính huỷ diệt để đánh bắt hải sản.

Ví dụ: Dùng bẫy tre đánh bắt huỷ diệt cá lác (thòi loi) ở vùng ven biển đồng bằng Bắc Bộ, có tập quán dùng bẫy tre để bẫy cá thòi loi (Periopthalmus cantonensis) ở trên các bãi triều lầy trước RNM. Hàng ngày, buổi sáng, lúc nước triều rút hết, thì cá rời bỏ hang, bò lên mặt bãi triều kiếm ăn. Người ta đặt bẫy trên cửa hang và cá bị chẹt ngang cổ. Mỗi người có trên dưới 100 bẫy, sử dụng liên tục cho tới khi nước triều ngập bãi.Bằng cách tận thu triệt để chỉ sau một thời gian, phần lớn cá thòi loi ở các bãi triều RNM đã bị bắt hết.

3.2.3. Chim di cư

Mặc dầu một số tổ chức quốc tế như Tổ chức bảo vệ chim quốc tế, Quỹ động vật hoang dã thế giới đã cho xuất bản một số tài liệu về các động vật quí hiếm, các chim di cư cần bảo vệ, nhưng do các địa phương ven biển chưa quan tâm đúng mức, hoặc chưa quản lý nên tình trạng săn bắn trộm, dùng lưới để bẫy chim di cư, chim nước ở các vùng có RNM khá phổ biến. Đây là mối đe doạ lớn đối với các động vật quí hiếm của thế giới. Cần có biện pháp kịp thời để ngăn chặn.

2.3.3. Gây ô nhiễm môi trường

RNM ở các vùng cửa sông, ven biển là nơi hứng chịu các chất thải sinh hoạt, y tế, các chất hoá học dư thừa trong nông nghiệp như thuốc trừ sâu, phân hoá học. Phần lớn các chất thải công nghiệp chưa xử lý đều được đổ ra các cửa sông như khu công nghiệp Biên Hoà đổ ra các cửa sông Sài Gòn và Đồng Nai, khu công nghiệp Hải Phòng – Quảng Ninh đổ ra cửa sông Bạch Đằng làm giảm chất lượng nước, ảnh hưởng xấu đến các tài nguyên động thực vật vùng RNM.

Các vùng cửa sông cũng là nơi hoạt động của tàu bè. Theo số liệu thống kê của Cục Môi trường (2002), từ năm 1995 đến tháng 6/2002 có 90 tai nạn tràn dầu với 92.420 tấn dầu tràn đổ ra vùng ven bờ và biển Đông. Nạn dầu tràn, đắm tàu, chở dầu ở khu vực RNM Cần Giờ đã làm cho một số rừng mới trồng chết, các bãi nuôi nghêu, sò huyết thiệt hại nặng. Nếu không có biện pháp quản lý tốt thì sẽ làm mất nguồn hải sản ở các vùng RNM và ảnh hưởng rõ rệt đến cuộc sống của người dân trong vùng.

Theo Phạm Văn Ninh (chủ biên, 1996) hàng năm nguồn chất thải chuyển qua một số sông chính ở miền Bắc như sau: đồng 2816 tấn, chì 730 tấn, cacdimi 118 tấn, kẽm 2015 tấn, cacbon 254 tấn, niken 142 tấn, asenic 448 tấn, thuỷ ngân 122 tấn, photphat 14860 tấn, nitrat 24602 tấn, amôn 352 tấn và DDT 400 tấn. Những kim loại nặng và các hợp chất độc hại này có ảnh hưởng lớn đến các sinh vật trong HSTRNM, khi con người ăn các động vật này cũng bị nhiễm độc.

2.3.3.1 Ô nhiễm đất

Việc chặt phá bừa bãi RNM ở một số địa phương cũng như việc phá RNM để sản xuất nông nghiệp, làm đầm nuôi tôm quảng canh đã biến loại đất mặn giàu chất dinh dưỡng thành đất phèn mặn (acid sulphat soil).

Trong đất ngập mặn giàu chất hữu cơ nhưng cũng giàu pirit (Fe2S). Khi mất lớp thực vật che phủ, bị phơi ra ngoài không khí, dưới tác động của nhiệt độ cao vào mùa khô, pirit bị oxy hoá thành dạng axit sulphuric (H2SO4). Axit này sẽ có tác dụng giải phóng các ion nhôm và sắt, có độc tính cao đối với thực vật. Trong điều kiện đó, phốtpho sẽ bị kết tủa dưới dạng phốtphat sắt và phốtphat nhôm không hoà tan, cây không hấp thụ được. Ngoài ra ion nhôm cũng rất độc đối với cá và động vật khác trong nước và trên bãi lầy (Birdlife International, 1999).

2.3.3.2 Đổ chất phế thải trong khai thác than đã vùi lấp các dải rừng ngập mặn

Ở Quảng Ninh có nhiều mỏ than lộ thiên sát ven biển hoặc sông nước mặn như: Hà Tu, Cẩm Phả, Mông Dương…. Khi khai thác than các xí nghiệp đổ vật phế thải xuống sông, biển lấp các bãi lầy có cây ngập mặn sinh sống. Việc xây dựng một số cảng than ở tỉnh này như cảng Uông Bí, Cửa Ông đã phá hủy nhiều đám RNM và hủy hoại các thảm cỏ biển và rạn san hô rất giàu động vật và hải sản ở vùng ven bờ và biển nông.

Việc khai thác than với tốc độ cao như hiện nay đang là mối đe doạ lớn đối với hệ sinh thái RNM ở một số địa phương trên vì lượng chất thải rất lớn vẫn tiếp tục đổ ra sông, biển hoặc do mưa làm xói mòn đất, than từ mỏ xuống các sông bé (ở Mông Dương) vùi lấp các những RNM ven sông và phá huỷ môi trường sống của các động vật hoang dã ở đó.

Ở Quảng Ninh có nhiều mỏ than lộ thiên sát ven biển hoặc sông nước mặn như: Hà Tu, Cẩm Phả, Mông Dương… Khi khai thác than các xí nghiệp đổ vật phế thải xuống sông, biển, lấp các bãi lầy có cây ngập mặn sinh sống. Việc xây dựng một số cảng than ở tỉnh này như Uông Bí, Cửa Ông đã phá huỷ nhiều RNM và huỷ hoại các thảm cỏ biển. Bụi than và chất phế thải đã huỷ diệt các rạn san hô sống, phá huỷ khu hệ động vật phong phú ở đây.

2.2.3. Phá rừng ngập mặn để phát triển đô thị, cảng biển

Trong thời kỳ đổi mới, công nghiệp hoá đất nước, nhều vùng RNM ở ven biển, cửa sông đã và đang bị lấp đất để xây dựng đô thị, khu công nghiệp, cảng biển như Nghi Sơn (Thanh Hoá), Vũng Áng (Hà Tĩnh), Tuần Lễ (Khánh Hoà), thị xã Hà Tiên… Hiện nay diện tích RNM đã bị thu hẹp mạnh, nếu không có biện pháp bảo vệ những dải RNM còn lại ở một số địa phương thì không những làm mất đi nguồn tài nguyên quí giá mà còn mất cảnh quan đặc thù của vùng nhiệt đới. Hiện tượng xói lở bờ sông, bờ biển khó tránh khỏi, kinh phí để chống xói lở có thể gấp hàng trăm lần tiền trồng và bảo vệ rừng ngập mặn.

2.2.4. Phá rừng ngập mặn để làm đầm tôm

Sự phát triển nhanh chóng của nghề nuôi tôm đã có những tác động nghiêm trọng đến hệ sinh thái RNM của Việt Nam (EJF, 2003).

Chỉ trong hai thập kỷ vừa qua hơn 200.000 ha RNM đã bị phá hoại, bị ngâm nước chết để làm đầm tôm (Hồng, 2003). Trong những năm đầu của thế kỷ 21, phong trào nuôi tôm nước lợ tiếp tục được nhà nước khuyến khích, cho nên ở một số địa phương hiện tượng phá RNM bất hợp pháp để làm đầm tôm trong đó một phần là rừng phòng hộ, là khu bảo tồn thiên nhiên như Khu bảo tồn Đất Mũi, các sân chim ở Bạc Liêu, Cà Mâu đang tiếp tục diễn ra rất sôi động.

Tình hình này đang là mối đe doạ lớn nhất đối với hệ sinh thái RNM và môi trường ven biển.

2.2.4.1. Phát triển nghề nuôi tôm ở vùng rừng ngập mặn làm suy giảm tài nguyên đa dạng sinh học

Mất RNM là mất nơi sống, nơi sinh sản, vườm ươm của nhiều loài động vật dưới nước và trên cạn. Một số nghiên cứu trước đây đã chỉ rõ điều đó. Ở phía tây nam mũi Cà Mau chỉ sau 1 năm đắp đầm tôm, trong đầm chỉ còn 2 loài động vật đáy với số lượng cá thể có rất ít, trong lúc ở bãi triều sát đầm có 22 loài với nhiều cá thể (Hồng và An, 1992). Nghiên cứu đầm tôm bỏ hoang ở cửa Nam Triệu (Hải Phòng) (trên đất RNM) cho thấy sinh khối động vật đáy giảm tới 9 lần so với vùng lân cận còn RNM (Trọng và Hồng, 2001).

Trong những năm 1980, cua giống ở ven biển đồng bằng Bắc Bộ rất ít phải mua ở miền Trung. Sau khi phục hồi RNM, lượng cua giống ngày càng nhiều. Rất nhiều gia đình đã giàu lên nhờ bắt cua giống bán (Thọ và cs, 2003). Nếu RNM tiếp tục bị phá làm đầm nuôi tôm thì các hải sản và nguồn giống tôm, cua cũng không còn.

Trước đây, nhiều loại chim di cư về trú đông và kiếm ăn ở các vùng cửa sông ven biển có RNM. Đáng lo ngại nhất là sân chim Bạc Liêu, nơi trước đây có hàng vạn cá thể các loài chim nước, chim di cư. Mặc dầu được nhà nước đầu tư mở rộng diện tích vùng đệm, nhưng phong trào nuôi tôm tự phát của một số người ở địa phương đang lấn dần diện tích Khu bảo tồn. Việc đào mương dẫn nước mặn vào vùng đệm đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến môi trường sống của chim ở vùng lõi, một số cây là nơi làm tổ của chim như tra lâm vồ bị chết, chim không đủ nước ngọt để uống, các hoạt động của máy bơm xục khí đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến chim non, .v.v… Sau khi phá RNM, các loài chim và một số bò sát cũng biến mất.

2.2.3.2. Sử dụng các hoá chất tác động đến các sinh vật trong vùng rừng ngập mặn

Do việc sử dụng hoá chất ở các trại tôm bán công nghiệp và công nghiệp thiếu kiểm soát như thuốc sát trùng, chất kháng sinh chloramphenicol, phân bón, thuốc trừ sâu, hoóc môn tăng trưởng cùng với các chất thải khác như thức ăn dư thừa, phân, CO2, amoniac, các kim loại nặng từ các đầm tôm được nước triều đem vào các cửa sông, kênh, rạch và vùng RNM đã phá huỷ chu trình dinh dưỡng trong hệ sinh thái RNM, vì các chất này gây hại đến hệ vi sinh vật rất phong phú, nhưng rất quan trọng trong nước biển. Hậu quả là nhiều động vật ăn mùn bã không sống được và ảnh hưởng dây chuyền đến các động vật ăn thịt, những loài hải sản có giá trị cao ở vùng RNM.

2.2.3.3. Dịch bệnh gây tác hại đến các động vật trong vùng

Nuôi tôm trong đất đã chặt hết cây ngập mặn hoặc đã giết chết hết cây ngập mặn bằng cách giữ nước trong đầm làm cho môi trường thoái hoá nhanh. Trước hết các bộ phận cây chết bị phân huỷ trong điều kiện yếm khí sẽ tạo ra H2S và NH4 đầu độc các sinh vật sống trong đầm, kể cả các tảo phù du là thức ăn và nguồn cung cấp oxi cho tôm. Đất trong đầm chứa nhiều pirit dưới tác động của không khí và nhiệt độ cao kéo dài sẽ tạo ra H2SO4 – gây hại cho tôm và các sinh vật khác. Ngoài các điều kiện tự nhiên trên đây, mật độ tôm quá dày, chế độ ăn không thích hợp cùng với các nguồn giống không chọn lọc sẽ tạo điều kiện cho bệnh ở tôm phát triển. Môi trường chứa các mầm bệnh này được thải ra các kênh rạch và gây hại không chỉ cho tôm nuôi mà cả nhiều động vật khác trong vùng.

Một hiện tượng khá phổ biến ở các đầm nuôi tôm quảng canh của cả miền Bắc và miền Nam là có nhiều tảo dao động như Oscillatoria subbrevis, O. limota. Các loài tảo này thường phát triển thành lớp dầy nhờn, màu lục, nổi thành vùng tảo lab-lab trên mặt đầm. Khi trời nắng nhất là vào mùa mưa, chúng tiêu thụ một số lượng lớn chất dinh dưỡng, ảnh hưởng đến sự phát triển của các thực vật phù du. Mặt khác khi chúng chết sẽ làm mặt nước trong đầm bị thối, lượng ôxy hòa tan giảm, góp phần làm cho chất lượng nước bị thoái hóa nhanh. Khi tháo nước đầm, đánh bắt tôm cua, nước có các chất độc hại trên chảy ra sông, rạch và các đầm tôm ở khu vực lân cận, làm ô nhiễm cả vùng rộng lớn xung quanh. Một số động vật phải di chuyển đi chỗ khác. Một số động vật đáy hấp thụ các chất độc hại cũng ảnh hưởng đến sinh trưởng hoặc chết dần.

Theo Lê Diên Dực (1996), bệnh sốt rét có thể bùng phát do mất RNM vì ấu trùng của loài muỗi sốt rét nước lợ (Anopheles sinensis) sống trong RNM, ăn tảo tiểu cầu Chlorella – tảo này chỉ phát triển mạnh nếu đủ ánh sáng. Khi RNM còn tốt thì tảo không phát triển nên số lượng muỗi hạn chế, ngược lại khi mất rừng thì bệnh sốt rét có nguy cơ bột phát. Thực tế đã chứng minh hiện tượng trên là đúng. Ở huyện Bình Đại – Bến Tre và ở Ngọc Hiển – Cà Mau, vào những năm 1975, 1976, bệnh sốt rét phát triển vì phần lớn RNM bị chất độc hoá học huỷ diệt (Hồng (chủ biên), 1999).

2.2.5. Xói lở bờ biển, bờ sông, các hồ chứa

Tình trạng chặt phá RNM để làm đầm tôm đang gây ra xói lở ở các vùng bờ biển, cửa sông như Cửa Hội (Hà Tĩnh), cửa sông Trần Đê (Sóc Trăng), bờ đầm Nại (Ninh Thuận).v.v…

2.2.6 Buông lỏng quản lý, chạy theo nguồn lợi trước mắt

Các cơ quan quản lý từ trung ương đến địa phương chưa đánh giá đúng vai trò to lớn của hệ sinh thái RNM; buông lỏng quản lý trong việc sử dụng tài nguyên vùng ven biển có RNM; không kiên quyết xử lý việc phá rừng để nuôi tôm. Nhiều địa phương chỉ chú trọng đến lợi ích trước mắt là cho đấu thầu đất bãi lầy có RNM ở ven biển, cửa sông để nuôi tôm xuất khẩu mà chưa tính đến hậu quả lâu dài do thiên tai và suy giảm tài nguyên khi không còn rừng.

2.2.7 Những mối đe doạ khác

Trước chiến tranh Đông Dương (1945), Việt Nam có tới 43,6% diện tích đất có rừng che phủ, chủ yếu là rừng nguyên sinh. Ngày nay chỉ có 28%, phần lớn là rừng trồng các loài cây nhập nội, rừng tái sinh. Hậu quả của tình hình này đã làm thay đổi khí hậu ở trong vùng mưa lũ, hạn hán thất thường và ở mức độ cao, gây ra những thiệt hại nghiêm trọng ở cả vùng núi và vùng ven biển.

Việc khai thác nước ngầm bừa bãi dùng trong sinh hoạt, tưới cây, đặc biệt là phục vụ cho việc nuôi tôm thâm canh ven biển đang là mối đe doạ lớn đối với hệ sinh thái RNM. Hiện tượng suy thoái RNM do độ mặn nước triều quá cao đã và đang làm cho một số diện tích rừng trồng ở Quảng Ninh, Thái Bình bị chết hoặc bị hà bám dày đặc rồi chết dần.

Bên cạnh đó việc đắp đê ngăn mặn, đắp bờ bao ngăn lũ tràn ở đồng bằng sông Cửu Long đã làm cho độ mặn ở vùng cửa sông, các con sông có nước lợ về mùa khô tăng cao, ảnh hưởng lớn đến các loài động vật ưa nước lợ như bần chua (Sonneratia caseolaris), dừa nước (Nypa fruticans) rất phong phú ở vùng này, một số loài thân mềm, giáp xác và cá nước lợ cũng giảm dần.

Hiện tượng nước biển dâng được tạo ra bởi tổ hợp của nhiều yếu tố, đặc biệt do sự tăng khí thải công nghiệp, nông nghiệp như CO2, CH4 và mất RNM. Những dự báo cho biết trong thế kỷ này, Trái đất sẽ ấm lên, mức nước biển sẽ dâng cao hơn mức hiện nay có thể từ 60-100cm. Trong điều kiện đó nhiều vùng đất thấp ven biển, đặc biệt là ở đồng bằng sông Cửu Long sẽ bị chìm ngập trong nước biển, các rừng cây ngập mặn, các đầm tôm cũng không còn nữa.

Một số địa phương vận dụng sai lệch văn bản của Nhà nước (QĐ 773) trong việc sử dụng đất bồi mặt nước ven biển. Họ không những không quan tâm đúng mức đến việc trồng, bảo vệ rừng phòng hộ mà chỉ coi RNM là vùng đất ngập nước ít giá trị nên có qui hoạch phá một số RNM để mở rộng diện tích nuôi tôm (tỉnh Quảng Ninh, thành phố Hải Phòng, tỉnh Thanh Hoá, tỉnh Hà Tĩnh, tỉnh Khánh Hoà…).

Một số đề án trồng RNM của các NGOs đã hết thời hạn hỗ trợ kinh phí để chăm sóc bảo vệ rừng. Khi giao lại cho địa phương do không đủ kinh phí để tổ chức bảo vệ, nên có thể rừng lại tiếp tục bị chuyển đổi sang mục đích kinh tế khác.

Tính pháp lý của các bản hợp đồng và cam kết giữa NGOs và chính quyền hoặc các đoàn thể ở một số địa phương bị vi phạm và không thực hiện đầy đủ do những người ký (bên B) sau một số năm đã chuyển sang công tác khác; một số người lãnh đạo mới không chịu kế thừa trách nhiệm quản lý, mà chỉ quan tâm đến lợi ích trước mắt là phát triển nguồn lợi từ tôm nuôi để xuất khẩu.

2.3 Đề xuất đối với việc phục hồi rừng ngập mặn ven biển

2.3.1 Các mục tiêu chiến lược hành động quốc gia về rừng ngập mặn đến 2010

2.3.1.1. Mục tiêu chung

Chiến lược nhằm thúc đẩy việc bảo vệ, phục hồi, sử dụng và quản lý có hiệu quả hệ sinh thái rừng ngập mặn (HSTRNM) Việt Nam theo định hướng phát triển bền vững, đảm bảo các chức năng sinh thái, giá trị và tính đa dạng sinh học của HSTRNM đáp ứng được các yêu cầu phát triển kinh tế xã hội và bảo vệ môi trường vùng cửa sông ven biển.

2.3.1.2. Các mục tiêu cụ thể

Hệ sinh thái rừng ngập mặn là một thành tố của đất ngập nước, là một loại rừng phòng hộ đồng thời cũng là nguồn lợi rất lớn về thuỷ sản. Do đó chiến lược hành động bảo vệ HSTRNM phải phù hợp với các mục tiêu chiến lược đất ngập nước và chiến lược của các ngành Lâm nghiệp, thuỷ sản.

Tuy nhiên, RNM là một hệ sinh thái có đặc thù ở vùng chuyển tiếp giữa biển và đất liền (ecotone), rất nhạy cảm trước các tác động của con người và thiên nhiên. Do đó không thể áp dụng cứng nhắc các luật về rừng nội địa, về thuỷ sản vào việc sử dụng và quản lý.

Tăng cường hiệu quả pháp luật về quản lý và bảo vệ HSTRNM

Đánh giá tiềm năng các tài nguyên trong HSTRNM, hiện trạng về kinh tế xã hội trong vùng có RNM, tìm nguyên nhân và hậu quả của các hình thức sử dụng không hợp lý hiện nay, từ đó đề xuất các giải pháp trước mắt và lâu dài để sử dụng bền vững.

Đề xuất các biện pháp giữ dìn và phục hồi các chức năng và giá trị của HSTRNM. Ưu tiên các vùng mà RNM có ý nghĩa quan trọng đối với việc bảo vệ môi trường, cuộc sống của người nghèo, có ý nghĩa quốc gia, quốc tế như các khu bảo tồn, các sân chim, các vườn quốc gia.

Tăng cường hợp tác giữa các ngành có liên quan và giữa trung ương và với địa phương trong việc qui hoạch và quản lý HSTRNM.

Tìm các biện pháp để nâng cao mức sống của nhân dân sống trong vùng RNM để hạn chế tối đa việc phá rừng nuôi tôm và chặt phá rừng.

Khuyến khích nghiên cứu khoa học, điều tra tổng hợp HSTRNM ở các vùng sinh thái khác nhau đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội, sử dụng bền vững tài nguyên, bảo vệ môi trường cửa sông, ven biển.

Đề ra các biện pháp có hiệu quả để nâng cao nhận thức của cộng đồng về vai trò và lợi ích của HSTRNM từ đó tạo điều kiện cho cộng đồng bảo vệ RNM, đấu tranh với các hành vi phá RNM vì mục tiêu kinh tế trước mắt, cục bộ.

Tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực nghiên cứu, phục hồi, bảo vệ, bảo tồn và phát triển bền vững HSTRNM.